Nevus comedonicus
Nevus comedonicus
1. Tổng quan
Vảy phấn dạng lichen (Pityriasis lichenoides-PL) là bệnh lý viêm da không phổ biến có nguyên nhân không rõ ràng. 2 thể bệnh gồm dạng cấp tính là vảy phấn dạng đậu mùa cấp tính (PLEVA) và dạng mãn tính là vảy phấn dạng lichen mạn tính (PLC), nằm ở hai cực của phổ bệnh với biểu hiện các đặc điểm chồng chéo nhau. Thể Mucha–Habermann là một thể của vảy phấn dạng lichen nhưng thường chỉ trường hợp PLEVA có loét hoại tử nghiêm trọng.
Tỷ lệ mắc bệnh vảy phấn dạng lichen chưa được biết rõ, nhưng bệnh này rất hiếm. Bệnh thường gặp nhất ở trẻ em và người trẻ dưới 30 tuổi nhưng có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Nam giới chiếm ưu thế hơn. Mọi chủng tộc đều bị ảnh hưởng.
Nguyên nhân gây ra PL vẫn chưa được biết rõ. Các giả thuyết chính là có thể là: Phản ứng quá mẫn với nhiễm trùng, chẳng hạn như: virus (Virus Epstein-Barr, cytomegalovirus, virus HIV); vi khuẩn (tụ cầu, liên cầu); ký sinh trùng (Toxoplasma gondii). Phản ứng với thuốc, chẳng hạn như thuốc kháng TNF, statin, thuốc chống trầm cảm, vắc-xin và thuốc cản quang. Có thể do rối loạn tăng sinh lympho.
2. Đặc điểm lâm sàng
PLEVA xuất hiện đột ngột, tiến triển nhanh với:
PLC biểu hiện chậm hơn trong nhiều ngày với:
Bệnh nhân thường biểu hiện các đặc điểm của cả PLEVA và PLC và PLEVA có thể tiến triển thành PLC. Tổn thương niêm mạc đã được báo cáo trong một số trường hợp.
Bệnh nhân da sẫm màu, đặc biệt là trẻ em, có thể biểu hiện tình trạng giảm sắc tố lan rộng và tổn thương rõ ở mặt. Các dấu hiệu để xác định của bệnh vảy phấn dạng lichen có thể rất khó phát hiện.
3. Chẩn đoán
Chẩn đoán thường có thể dựa trên lâm sàng nhưng thường được xác nhận bằng sinh thiết da, giúp loại trừ các chẩn đoán phân biệt khác.
Dermoscopy có thể hữu ích, đặc biệt là để phân biệt PLC với vảy nến thể giọt hoặc vảy phấn hồng.
Các xét nghiệm khác, chẳng hạn như sàng lọc nhiễm trùng do virus, vi khuẩn và toxoplasma, có thể được cân nhắc, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của biểu hiện.
Chẩn đoán phân biệt: sẩn dạng lympho, vảy nến thể giọt, bệnh thủy đậu, bệnh vảy phấn hồng, phản ứng công trùng đốt, lichen phẳng, viêm da đầu chi dạng sẩn (hội chứng gianotti-crosti), mycosis fungoides thể giảm sắc tố.
4. Phương pháp điều trị
Vảy phấn dạng lichen thường được điều trị bằng erythromycin (ở trẻ nhỏ) hoặc doxycycline (ở người lớn). Chúng được sử dụng vì tác dụng chống viêm hơn là đặc tính kháng khuẩn của chúng. Corticosteroid tại chỗ không có nhiều tác dụng. Thuốc kháng histamin có thể làm giảm ngứa. Liệu pháp quang trị liệu, thường là tia UVB dải hẹp, thường là phương pháp điều trị được chỉ định cho bệnh vảy nến dạng lichen mạn tính. Methotrexate và các thuốc ức chế miễn dịch khác có thể được cân nhắc cho những trường hợp kháng thuốc hoặc bệnh nghiêm trọng.
5. Tiên lượng
PLEVA thường khỏi trong vòng vài tuần. Tuy nhiên, PLEVA có thể tiến triển thành PLC hoặc tạo thành sẹo. PLC thường kéo dài trong vài tháng, nhưng một số trường hợp có thể kéo dài trong vài năm với các đợt tái phát và thuyên giảm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Clarey DD, Lauer SR, Trowbridge RM. Clinical, Dermatoscopic, and Histological Findings in a Diagnosis of Pityriasis Lichenoides. Cureus. 2020 Jun 20;12(6):e8725.
2. Bellinato F, Maurelli M, Gisondi P, Girolomoni G. A systematic review of treatments for pityriasis lichenoides. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2019;33(11):2039–49.
3. Chen Y, Zhao M, Xiang X, Wang Z, Xu Z, Ma L. Oral erythromycin in pityriasis lichenoides chronica and pityriasis lichenoides et varioliformis acuta. Dermatol Ther. 2020 May;33(3):e13311.
4. Jung F, Sibbald C, Bohdanowicz M, Ingram JR, Piguet V. Systematic review of the efficacies and adverse effects of treatments for pityriasis lichenoides. Br J Dermatol. 2020;183(6):1026–32.
Viết bài: BSNT. Nguyễn Mạnh Hùng
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.