Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)
1. Đại cương
Nevus comedonicus (NC), được Kofmann mô tả lần đầu tiên vào năm 1895, là một loại bớt thượng bì (epidermal nevus) hiếm gặp với biểu hiện các lỗ mở của nang lông tập trung thành đám, ở trong có các nút sừng sẫm màu.
NC được coi là một bớt thượng bì phát triển từ nang lông. Tỷ lệ mắc bệnh được báo cáo từ 1/100.000 - 1/45.000 và không có sự khác biệt về giới và sắc tộc.
Nguyên nhân chính xác vẫn chưa rõ ràng, NC được cho là một đột biến thể khảm trong quá trình phát triển phôi, trong đột biến ở thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGFR2) thường được biết tới nhiều nhất. Những đột biến này gây ra sự phá vỡ cân bằng trong biệt hóa nang lông.
2. Chẩn đoán
Chẩn đoán NC chủ yếu dựa vào lâm sàng, trường hợp không điển hình hoặc cần chẩn đoán phân biệt có thể chỉ định sinh thiết làm giải phẫu bệnh.
2.1. Biểu hiện lâm sàng
Hầu hết các trường hợp khởi phát trước 10 tuổi, NC thường biểu hiện dưới dạng một đám các nút sừng màu nâu/đen trong các lỗ mở nang lông, có hình dạng như tổ ong. Vị trí thường gặp nhất ở mặt, thân, cổ và chi trên, nhưng có thể ảnh hưởng đến bất kỳ vị trí nào của cơ thể. Tổn thương có thể phân bố dạng dải hoặc không liên tục, một bên/hai bên theo đường Blaschko.
Trên tổn thương NC có thể kèm theo các tổn thương dạng nang, mụn mủ và áp xe.
Các bất thường cơ quan khác liên quan trong hội chứng NC (Nevus Comedonicus Syndrome) như:
Các biến chứng của NC thường xuất hiện trong giải đoạn thanh thiếu niên, bao gồm: tạo nang, nhiễm khuẩn, viêm mãn tính, sẹo.
2.2. Biểu hiện cận lâm sàng
Soi da (dermoscopy) có thể giúp quan sát tổn thương rõ ràng hơn.
Sinh thiết tổn thương: hiếm khi cần thiết với biểu hiện các vết lõm ở thượng bì giống như nang lông giãn rộng chứa đầy chất sừng ở trung tâm, không phát hiện tuyến bã hay sợi lông. Lớp gai vùng quanh nang dày (acanthosis), đôi khi phát hiện viêm quanh nang nếu tổn thương vỡ hoặc bội nhiễm, không có tế bào ác tính.
2.3. Chẩn đoán phân biệt
3. Điều trị
NC là tổn thương lành tính và không có triệu chứng nên thường không cần điều trị, tổn thương không thay đổi trong suốt cuộc đời bệnh nhân. Việc điều trị nên cân nhắc vì lý do ảnh hưởng thẩm mỹ hoặc các biến chứng.
Các phương pháp bảo tồn:
+ Tretinoin và các retinoid tại chỗ khác +/- steroid tại chỗ hoặc calcipotriol.
+ Axit salicylic.
+ Amoni lactat.
+ Isotretinoin có thể làm giảm sự hình thành nút, nhưng cần điều trị lâu dài, do đó thường không được khuyến khích.
+ Kháng sinh có thể cần thiết để điều trị các bệnh nhiễm trùng thứ phát
Phương pháp xâm lấn:
Tài liệu tham khảo:
1. Kaliyadan F, Troxell T, Ashique KT. Nevus Comedonicus. [Update: August 8, 2023]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2025 Jan.
2. Tchernev G, Ananiev J, Semkova K, Dourmishev LA, Schönlebe J, Wollina U. Nevus comedonicus: an updated review. Dermatol Ther (Heidelb). 2013 Jun;3(1):33-40.
3. Polat M, Altunay Tuman B, Sahin A, Dogan U, Boran C. Bilateral nevus comedonicus of the eyelids associated with bladder cancer and successful treatment with topical tretinoin. Dermatol Ther. 2016 Nov;29(6):479-481.
4. Ferrari B, Taliercio V, Restrepo P, Luna P, Abad ME, Larralde M. Nevus comedonicus: a case series. Pediatr Dermatol. 2015 Mar-Apr;32(2):216-9.
Viết bài: ThS.BS. Nguyễn Mạnh Tân - Phòng Chỉ đạo tuyến
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.