U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
1. Đại cương
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
Viêm da quanh miệng thường ảnh hưởng đến phụ nữ trưởng thành trẻ tuổi, từ 20 đến 45 tuổi. Tuy nhiên, tình trạng này cũng đã được báo cáo ở trẻ em. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các giới tính hoặc chủng tộc.
Nguyên nhân chính xác của viêm da quanh miệng vẫn chưa được biết rõ. Bệnh có nhiều yếu tố tiếp xúc với môi trường liên quan đến nguyên nhân gây bệnh. Đối với một số bệnh nhân, có mối liên quan giữa việc sử dụng corticosteroid tại chỗ và viêm da quanh miệng.
Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất các nguồn lây nhiễm là nguyên nhân gây viêm da quanh miệng bao gồm Candida albicans, Fusobacterium và Demodex, sử dụng kem đánh răng có chứa fluor. Một số sản phẩm mỹ phẩm, chẳng hạn như sử dụng kết hợp kem dưỡng ẩm và kem nền, cũng như kem chống nắng vật lý, có thể là nguyên nhân gây bệnh ở một số bệnh nhân. Do tình trạng này chủ yếu gặp ở phụ nữ nên các yếu tố nội tiết tố đã được xem xét trong nguyên nhân gây bệnh.
2. Các đặc điểm lâm sàng
Bệnh nhân bị viêm da quanh miệng thường có biểu hiện là các dát và sẩn đỏ tập trung thành từng đám, thường ở cả hai bên nhưng có thể ở một bên, bao quanh miệng, mắt và mũi. Các biểu hiện khác bao gồm bong tróc, mụn nước và mụn mủ. Viền môi đỏ thường không bị ảnh hưởng. Ở dạng u hạt, các sẩn màu da đến đỏ đến vàng nâu phát triển ở cùng một vị trí, mặc dù tình trạng hiếm gặp ở tai, cổ, da đầu, thân, âm hộ và tứ chi đã được mô tả.
Bệnh nhân có thể có triệu chứng bỏng hoặc nhạy cảm, ngứa cũng có thể xảy ra. Bệnh nhân có thể nhạy cảm với nhiều sản phẩm chăm sóc da khác nhau, có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh. Các trường hợp hiếm gặp của viêm da quanh miệng dạng u hạt có thể đi kèm với viêm bờ mi hoặc viêm kết mạc.
3. Chẩn đoán
Phần lớn bệnh nhân bị viêm da quanh miệng được chẩn đoán lâm sàng, mặc dù sinh thiết da nên được cân nhắc với biểu hiện không điển hình hoặc không đáp ứng với điều trị.
Nếu nghi ngờ có thành phần vi khuẩn, có thể tiến hành nuôi cấy. Ngoài ra, có thể tiến hành soi nấm nếu nghi ngờ do nấm Candida.
Sinh thiết da có thể cần thiết trong một số trường hợp nghi ngờ với các bệnh lý khác.
Chẩn đoán phân biệt: mụn trứng cá thông thường, trứng cá đỏ, bệnh sarcoidosis, viêm da dầu, viêm da tiếp xúc dị ứng, viêm môi kích ứng, viêm nang lông do Demodex, nấm da
4. Phương pháp điều trị
Các lựa chọn điều trị đầu tay cho viêm da quanh miệng bao gồm kem hoặc gel metronidazole, thuốc mỡ hoặc gel clindamycin, gel erythromycin và gel axit azelaic. Thuốc ức chế calcineurin tại chỗ như thuốc mỡ tacrolimus hoặc kem pimecrolimus cũng có thể có hiệu quả. Các chế phẩm lưu huỳnh hoặc sulfacetamide tại chỗ và adapalene tại chỗ đã được chứng minh là có tác dụng cải thiện. Liệu pháp quang động sử dụng axit 5-aminolevulinic đã được báo cáo là có lợi.
Nếu liệu pháp tại chỗ không có hiệu quả hoặc tình trạng lan rộng, kháng sinh đường uống thường có hiệu quả như tetracycline, doxycycline, minocycline hoặc erythromycin. Trong những trường hợp dai dẳng và nghiêm trọng, có thể sử dụng isotretinoin uống liều thấp.
Mặc dù corticosteroid tại chỗ có thể mang lại lợi ích tạm thời, nhưng khi ngừng sử dụng, bệnh thường bùng phát và trở nên tồi tệ hơn.
5. Tiên lượng
Ở một số bệnh nhân, bệnh có thể khỏi hoàn toàn sau khi ngừng sử dụng tác nhân gây bệnh bao gồm steroid bôi ngoài da và các sản phẩm chăm sóc da. Tuy nhiên, viêm da quanh miệng thường là tình trạng tái phát mãn tính và thường cần điều trị lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gray NA, Tod B, Rohwer A, Fincham L, Visser WI, McCaul M. Pharmacological interventions for periorificial (perioral) dermatitis in children and adults: a systematic review. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2022;36(3):380–90. doi: 10.1111/jdv.17817. PubMed
2. Kim Yoon Jee, Jung Woong Shin, Jong Suk Lee, Young-Lip Park, Kyu Uang Whang and Sung Yul Lee. “C.” Annals of Dermatology 23 (2011): 386–8. PubMed Central
3. Lipozenčić J, Hadžavdić, S.L. Perioral dermatitis. Clin Dermatol. 2014 Jan-Feb;32(1):125–30. doi: 10.1016/j.clindermatol.2013.05.034. Journal
4. Searle T, Ali FR, Al-Niaimi F. Perioral dermatitis: Diagnosis, proposed etiologies, and management. J Cosmet Dermatol. 2021 Dec;20(12):3839–48. doi: 10.1111/jocd.14060. Journal.
Viết bài: BSNT. Nguyễn Mạnh Hùng
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.
Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)
Nơ vi hắc tố bẩm sinh: Tại sao nên khám và điều trị sớm
Dấu hiệu nhận biết phân biệt bệnh Bạch biến với một số bệnh da giảm sắc tố khác
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh – phát hiện sớm, chăm sóc đúng, giúp người bệnh vượt qua đau đớn