Kháng thể kháng Ro/SSA và Lupus ban đỏ

Ngày đăng: 18/09/2015 Admin

1.Vài nét về kháng thể kháng Ro/SSA

Năm 1969, Clark và cộng sự đã tìm ra kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân SLE kháng lại kháng nguyên RNP trong dịch chiết lách thỏ và người. Họ đã đặt tên kháng thể này là kháng thể anti-Ro. Nhóm các tác giả này cũng tìm ra kháng thể kháng lại kháng nguyên RNP hòa tan trong tế bào chất, kháng nguyên “La”. Cùng thời điểm này, Alspaugh và Tan đã thấy sự tồn tại của các kháng thể trong huyết thanh nhiều bệnh nhân SS, kháng lại các kháng nguyên “SSA” và “SSB”. Sau đó, Ro và La được cho là có tính đồng nhất về mặt kháng nguyên với SSA và SSB. Các tự kháng thể anti-Ro và anti-La có liên quan với biểu hiện lâm sàng khác nhau [1]. Tuy nhiên, vì sao các tự kháng thể này có mối liên hệ mật thiết với nhau thì vẫn chưa được giải thích rõ ràng.

Năm 1981, Lerner và cộng sự đã chỉ ra mối liên hệ giữa kháng nguyên Ro và các RNA nhỏ ở tế bào chất, tạo ra các hạt Ro-RNP [2]. Tiếp đó, kháng nguyên Ro được phát hiện ra gồm hai protein khác nhau, Ro60 và Ro52. Kháng nguyên đích của kháng thể anti-Ro được cho là một protein 60 kDa, tồn tại như phức hợp RNP và RNA nhỏ trong tế bào chất (hY-RNA). Đến năm 1988, Ben-Chetrit và cộng sự lần đầu tiên tìm ra protein 52 kDa, đặt tên là Ro52, một phần của kháng nguyên Ro. Ở người, gen Ro60 có kích thước khoảng 32 kb, nằm trên NST số 19, còn gen Ro52 có kích thước 8,8 kb, nằm trên NST số 11 [1]. Những nghiên cứu mới đây đã chứng minh rằng kháng nguyên Ro52 và Ro60 nằm ở các phần khác nhau của tế bào.

Trong một nghiên cứu mới đây của Schulte – Pelkum và cộng sự, kháng thể anti-Ro52 và anti-Ro60 có thể che phủ lẫn nhau nên hơn 20% mẫu huyết thanh có kháng nguyên Ro dương tính không được phát hiện bằng những kỹ thuật dùng kháng nguyên pha trộn. Do đó, các tác giả khuyến nghị rằng việc xét nghiệm riêng rẽ các kháng thể anti-Ro52 và anti-Ro60 là cần thiết [3]

2. Kháng thể kháng Ro/SSA và bệnh Lupus ban đỏ

Mặc dù vai trò bệnh sinh còn nhiều điều bàn cãi, kháng thể anti-Ro/SSA là một trong những kháng thể có tỷ lệ gặp nhiều nhất trong các bệnh lý tự miễn. Kháng thể anti-Ro/SSA thường thấy có liên quan với các bệnh SLE, hội chứng Overlap giữa SLE và SS, LE da bán cấp và LE ở trẻ sơ sinh [1].

Trong một nghiên cứu năm 2001, Welzel và cộng sự đã chỉ ra kháng thể anti-Ro/SSA có thể tìm thấy ở 40-90 % bệnh nhân bị SLE, trong khi kháng thể anti-La/SSB thì chỉ có ở khoảng 45% những bệnh nhân này. Bệnh nhân SLE có bổ thể C2 và C4 giảm có xu hướng có kháng thể anti-Ro dương tính với biểu hiện thương tổn da và viêm đa khớp, không có tổn thương thận và thần kinh trung ương [1].

Theo nghiên cứu của M.R. Arbuckle và cộng sự, kháng thể anti-Ro và anti-La được phát hiện sớm hơn những tự kháng thể liên quan SLE khác như kháng thể anti-dsDNA, anti-RNP, anti-Smith, trung bình 3,4 năm trước khi được chần đoán SLE. Một nghiên cứu khác của C.Eriksson ở Thụy Điển năm 2011 thì thấy loại kháng thể xuất hiện đầu tiên, trước khi xuất hiện các triệu chứng của SLE chính là kháng thể anti-Ro, thời gian trung bình là 6,6 năm [4]. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho rằng có sự liên quan gần giữa kháng thể anti-Ro và SLE khởi phát muộn, các triệu chứng biểu hiện sau 50 tuổi.

Kháng thể anti-Ro được cho là có liên quan với hiện tượng nhạy cảm ánh sáng, thương tổn da bán cấp, xuất huyết (viêm mạch) và các rối loạn về máu (thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu) trong SLE. Viêm phổi kẽ ở bệnh nhân SLE cũng có liên quan với kháng thể anti-Ro, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có bằng chứng về mối liên quan trực tiếp giữa loại kháng thể này và cơ chế bệnh sinh của bệnh phổi. Ngoài ra, những nghiên cứu về mối liên quan giữa kháng thể anti-Ro với viêm khớp không bào mòn, hay còn gọi là bệnh khớp Jaccoud cũng đã được báo cáo [1].

Lupus ban đỏ ở trẻ sơ sinh (Neonatal Lupus Erythematosus – NLE) là bệnh lý tự miễn thụ động ở một số trẻ sơ sinh có mẹ bị Lupus ban đỏ và kháng thể anti-Ro, anti-La dương tính. Biến chứng nguy hiểm nhất ở những trẻ này là block tim hoàn toàn bẩm sinh (Congenital Complete Heart Block – CHB). Những bà mẹ có kháng thể anti-Ro và/hoặc anti-La dương tính thì 1-5% có con sinh ra bị block tim bẩm sinh. Từ những năm 1950, người ta đã biết rằng tự kháng thể từ mẹ có khả năng đi qua rau thai và thai có thể bị nghẽn nhĩ thất hoàn toàn. Nhưng đến đầu những năm 1980, mối liên quan giữa tự kháng thể anti-Ro, anti-La và bệnh lý nghẽn nhĩ thất hoàn toàn ở trẻ sơ sinh mới được biết đến.

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra tất cả các biến chứng tim mạch ở trẻ sơ sinh đều liên quan với nồng độ kháng thể anti-Ro của mẹ mức trung bình đến cao và độc lập với nồng độ kháng thể anti-La. Họ cũng cho rằng, chính nồng độ của các tự kháng thể ở người mẹ chứ không phải sự có mặt của các kháng thể này liên quan đến sự xuất hiện Lupus ban đỏ ở trẻ sơ sinh. Vì vậy, siêu âm tim thai nhi cần được chỉ định cho tất cả các bà mẹ có nồng độ kháng thể anti-Ro cao [5].

Vai trò sinh bệnh học của các tự kháng thể trong các bệnh tự miễn vẫn chưa rõ ràng, nhưng đã có nhiều giả thuyết cho rằng kháng thể anti-Ro có vai trò trực tiếp làm tổn thương mô. Tia bức xạ UV dẫn đến quá trình sinh tổng hợp kháng nguyên Ro cả ở bào tương và nhân của tế bào sừng. Bên cạnh đó, tia UV còn làm tăng sự biểu hiện của các kháng nguyên trên bề mặt tế bào  dẫn đến khả năng các tế bào sừng bị chấn thương trực tiếp bởi các kháng thể anti-Ro. Dựa trên những dữ liệu này, Norris đã phát triển giả thuyết về cơ chế bệnh sinh liên quan sự nhạy cảm ánh sáng. (1) Tiếp xúc với tia UV dẫn đến sự tăng tổng hợp và biểu hiện kháng nguyên Ro trên bề mặt tế bào sừng, (2) Kháng thể anti-Ro trong vòng tuần hoàn gắn với các kháng nguyên trên bề mặt tế bào, (3) Các tế bào Lympho nhận biết domain Fc của kháng thể anti-Ro, dẫn đến sự chết của các tế bào sừng. Giả thuyết này cũng phù hợp với những nghiên cứu sau đó ở những bệnh nhân SLE, sự nhạy cảm ánh sáng và nồng độ kháng thể anti-Ro/La trong máu có liên quan trực tiếp với sự biểu hiện của kháng nguyên Ro và La ở da [1].

Tài liệu tham khảo:

Ryusuke Yoshimi, A.U., Keiko Ozato, Yoshiaki Ishigatbuto, Clinical and pathological roles of Ro/SSA autoantibody system. Clinical and Developmental Immunology, 2012. 2012.

M. R. Lerner, J.A.B., J. A. Hardin, and J. A. Steitz, Two novel classes of small ribonucleoproteins detected by antibodies associated with lupus erythematosus. Science, 1981. 211(4480): p. 400–402.

J. Schulte-Pelkum, M.F., and M. Mahler, Latest update on the Ro/SS-a autoantibody system. Autoimmunity Reviews, 2009. 8(7): p. 632–637.

C. Eriksson, H.K., M. Johansson, G. Hallmans, G.Wadell, S. Rantap, Autoantibodies predate the onset of systemic lupus erythematosus in northern Sweden. Arthritis Research and Therapy 2011. 13(1): p. article R30.

E. Jaeggi, C.L., R. Hamilton, J. Kingdom, E. Silverman, The importance of the level of maternal Anti-Ro/SSA antibodies as a prognostic marker of the development of cardiac neonatal lupus erythematosus. A prospective study of 186 antibody-exposed fetuses and infants. Journal of the American College of Cardiology, 2010. 55(24): p. 2778–2784

Nguồn tin, bài: BS. Nguyễn Thị Hà Vinh

Đăng tin: Bệnh viện Da liễu Trung ương


Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

dalieu.vn dalieu.vn