U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
1. ĐẠI CƯƠNG
Juvenile xanthogranuloma là một dạng của bệnh mô bào, được phân loại trong nhóm “bệnh mô bào không phải Langerhans” type II. JXG thường xuất hiện trong hai năm đầu đời dưới dạng sẩn hoặc nốt sần màu đỏ hoặc hơi vàng, thường gặp nhất ở đầu, cổ hoặc thân trên. Về mô bệnh học, JXG được đặc trưng bởi sự hiện diện của các mô bào, tế bào bọt và tế bào khổng lồ Touton. JXG thường lành tính và tự thoái triển từ 1 – 5 năm.
Juvenile xanthogranuloma (JXG) được mô tả lần đầu tiên vào năm 1905 bởi Adamson, là bệnh phổ biến nhất trong số các bệnh mô bào không Langerhans. Tỷ lệ mắc bệnh hiện không rõ. JXG có thể có mặt ngay sau sinh, 40 – 70% JXG khởi phát trong năm đầu đời. Tỷ lệ nam / nữ xấp xỉ 1,4: 1.
Tiên lượng của JXG nói chung là tốt, các tổn thương da và nội tạng có thể tự mất trong một vài năm. Các trường hợp tử vong hiếm gặp đã được báo cáo ở trẻ sơ sinh có tổn thương hệ thần kinh trung ương hoặc liên quan đến gan lớn
Có 5-10% bệnh nhân JXG mắc bệnh u xơ thần kinh type 1 (NF1) và chiếm 30% bệnh nhân NF1 dưới hai tuổi. Sự xuất hiện của dát cà cà phê au lait và JXG có thể là dấu hiệu của NF1 ở trẻ nhỏ ngay cả khi không có dấu hiệu chẩn đoán đáng tin cậy khác của NF1.
Hình 1: Tổn thương JXG ở vùng mặt trẻ sơ sinh
2. BỆNH SINH
Mô bào có nguồn gốc từ các tế bào CD34 +. Trong quá trình phát triển, dưới tác động của các cytokine tạo thành các tế bào CD14 + hoặc CD14-. Tế bào Langerhans và mô bào Langerhans có nguồn gốc từ tế bào CD14-. Các tế bào CD14 + trở thành bạch cầu mono/ đại thực bào hoặc tế bào tua gai ở da, được coi là tế bào tiền thân của mô bào không Langerhans
Phân tích bộ gen của các bệnh nhân JXG, người ta nhận thấy sự biến đối di truyền ở những bệnh nhân JXG có tổn thương hệ thống hơn so với những bệnh nhân có tổn thương da đơn độc.
Nguyên nhân của JXG hiện chưa rõ.
Mô bệnh học JXG đặc trưng bởi thâm nhập viêm hỗn hợp tế bào đơn nhân, các tế bào đa nhân khổng lồ và các tế bào khổng lồ Touton (đặc trưng bởi hạt nhân xếp hình vòng, bao quanh bởi tế bào bọt). Tế bào lympho, bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính và tế bào mast có thể được nhìn thấy.
Hóa mô miễn dịch: JXG dương tính với yếu tố XIIIa, CD68, CD163, CD14 và fascin. S100 và CD1a (đặc trưng cho bệnh mô bào Langerhans) âm tính.
3. LÂM SÀNG
JXG thường biểu hiện dưới dạng sẩn, mảng hoặc nodules màu đỏ hoặc vàng đến nâu, kích thước 0,5 – 2 cm. Vị trí thường gặp ở đầu, cổ và thân trên.
Các tổn thương có xu hướng đỏ và to hơn ở giai đoạn sớm, nhưng thường có màng vàng và phẳng hơn ở giai đoạn trưởng thành do chứa nhiều lipid. Có thể có giãn mạch.
Hình 4: Tổn thương JXG ở cẳng chân trẻ sơ sinh
Tổn thương da thường đơn độc, một số trường hợp có thể có nhiều tổn thương và có tổn thương ở các cơ quan khác như : gan, phổi, lách, hạch bạch huyết, xương và đường tiêu hóa với tỷ lệ 0.75%. Hiếm gặp tổn thương ở mắt với tỷ lệ khoảng 0,24%. Các triệu chứng nặng thường gặp ở trẻ nhỏ. Trong một nghiên cứu trên 45 trường hợp JXG ở thai nhi và trẻ sơ sinh, triệu chứng toàn thân gặp ở 12 bệnh nhân, 9 bệnh nhân có nhiều tổn thương da và triệu chứng toàn thân nặng.
Theo 2 nghiên cứu lớn về JXG, biểu hiện lâm sàng phân bố như sau:
Hình 5: Nhiều tổn thương JXG ở đầu trẻ 1 tuổi
Tổn thương da thường tự mất sau 1-5 năm, để lại sẹo teo hoặc tăng sắc tố. JXG có tổn thương hệ thống cũng tự thoái lui trong hầu hết các trường hợp.
JXG có tổn thương mắt: thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Mống mắt là vị trí thường gặp nhất, ngoài ra có thể gặp ở mi mắt, thể mi, giác mạc cũng có thể bị ảnh hưởng. Mắt đỏ và phù nề (chảy máu vào tiền phòng của mắt) là tổn thương thường gặp nhất. Tăng nhãn áp thứ phát có thể xảy ra do sự gia tăng cấp tính của áp lực nội nhãn do chảy máu hoặc chính JXG và có thể gây mù. Tổn thương da có thể xuất hiện trước, đồng thời với hoặc sau các tổn thương ở mắt.
4. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán JXG chủ yếu dựa lâm sàng. Khi nghi ngờ chẩn đoán, sinh thiết da và xét nghiệm miễn dịch là cần thiết.
Dermoscopy được xem là một công cụ hữu ích để chẩn đoán JXG với dấu hiệu “mặt trời lặn”, với vùng màu vàng cam ở trung tâm, bao quanh bởi một đường viền ngoại vi màu hồng với giãn mạch nhiều, phân nhánh. Các tổn thương cũ có chứa nhiều tế bào lipid hóa, thấy các hạt màu trắng và vàng.
Hình 8: Dermoscopy có hình ảnh mặt trời lặn: màu vàng cam ở trung tâm, xung quanh có giãn mạch với viền đỏ hồng
5. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
5.1 Bệnh JXG ở trẻ em cần phân biệt với các bệnh:
5.2 Bệnh JXG ở trẻ lớn và người lớn cần chẩn đoán phân biệt với:
6. ĐIỀU TRỊ
6.1 JXG ở da:
Không cần điều trị, bệnh thường tự thuyên giảm sau 1 – 5 năm, hầu hết không để lại sẹo, mooyj số ít để lại sẹo teo da ở các tổn thương lớn.
Cần giải thích, tư vấn cho bệnh nhân và cha mẹ hiểu về bệnh, tránh lo lắng.
Đối với trẻ nhỏ < 2 tuổi với nhiều tổn thương da nên tư vấn người nhà cho trẻ khám nhãn khoa để sàng lọc các tổn thương về mắt.
6.2 JXG ở mô dưới da và mô mềm:
Các tổn thương mô dưới da và mô mềm cũng tự thuyên giảm và không cần điều trị.
6.3 JXG ở mắt:
Trẻ em bị tổn thương mắt và quanh mắt nên được chuyển đến bác sĩ nhãn khoa để chẩn đoán và quản lý. Điều trị phụ thuộc vào loại tổn thương và biến chứng ở mắt.
6.4 JXG có triệu chứng toàn thân:
Các tổn thương toàn thân có liên quan đến các triệu chứng (ví dụ, ảnh hưởng khối lượng) có thể cần điều trị nếu chúng không tự thoái lui. Quyết định điều trị cho bệnh nhân mắc JXG toàn thân có triệu chứng nên được đưa ra tùy từng trường hợp cụ thể. Giới thiệu đến bác sĩ ung thư có thể được bảo hành. Điều trị có thể bao gồm cắt bỏ, xạ trị và / hoặc hóa trị liệu toàn thân.
Không có guideline về phác đồ hóa trị liệu tiêu chuẩn cho JXG toàn thân. Các phác đồ được sử dụng trong điều trị bệnh mô bào tế bào Langerhans (ví dụ, vinblastine, prednison, methotrexate và mercilaurine) thường được áp dụng cho JXG.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Bài viết: BSNT Nguyễn Thị Thảo Nhi
Đăng bài: Phòng CTXH
Viêm da dạng herpes (Dermatitis herpetiformis - Duhring-Brocq disease)
Phát ban đa dạng ở phụ nữ mang thai hay còn gọi là sẩn, mảng, mày đay và ngứa ở phụ nữ mang thai (pruritic urticarial papules and plaques of pregnancy- PUPPP) là tình trạng rối loạn viêm lành tính, hay gặp ở phụ nữ mang thai ở những tuần cuối thai kỳ hoặc ngay sau sinh. Trước đây tình trạng này còn được gọi là phát ban nhiễm độc ở phụ nữ mang thai hay phát ban nhiễm độc của Bourner khi mang tha
Bệnh mạch máu dạng mạng lưới (Livedoid vasculopathy)