Nevus comedonicus
Nevus comedonicus
1. Tổng quan về Nơ vi hắc tố bẩm sinh
Nơ vi hắc tố bẩm sinh (Congenital Melanocytic Nevus – CMN) là một dạng rối loạn phát triển của tế bào hắc tố, biểu hiện dưới dạng dát hoặc mảng tăng sắc tố hiện diện ngay từ lúc trẻ mới sinh hoặc xuất hiện trong những tuần đầu đời. Tổn thương có thể đơn độc hoặc đa ổ, với màu sắc từ nâu nhạt đến đen, kèm theo hoặc không kèm lông dày và bề mặt sần sùi.
Tỷ lệ mắc CMN dao động khoảng 1% số trẻ sơ sinh. Dù phần lớn CMN lành tính, nhưng nhiều nghiên cứu đã ghi nhận nguy cơ thoái hóa ác tính thành ung thư hắc tố (melanoma), đặc biệt ở nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ.
2. Nguy cơ tiềm ẩn và tác động toàn diện của CMN
Nguy cơ tiến triển ác tính
Rối loạn tâm lý – xã hội
Biến chứng khác
3. Lợi ích của việc khám sàng lọc và can thiệp sớm
- Cắt bỏ và khâu kín
- Phẫu thuật cắt thu dần
- Ghép da
- Sử dụng túi giãn da
4. Thông điệp từ các bác sĩ chuyên khoa
Viết bài: Ths.BSNT Vũ Đình Tâm - Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ - Bệnh viện Da liễu trung ương
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.