Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)
1. CẤU TRÚC, SINH LÝ DA TRẺ SƠ SINH
1.1. Cấu trúc
Cấu trúc da của trẻ sơ sinh có sự khác biệt lớn so với người lớn: mỏng hơn (độ dày bằng 40-60% so với người lớn), ít lông hơn, kết nối thượng – trung bì yếu hơn. Tỉ lệ diện tích da/cân nặng ở trẻ sơ sinh gấp 5 lần so với người lớn. Vì vậy, da trẻ sơ sinh dễ bị tổn thương, nhiễm khuẩn và mức độ hấp thu thuốc qua da cao hơn.
Thượng bì và trung bì được hình thành vào tháng thứ 4 của thai kì nhưng lớp sừng còn mỏng và chức năng chưa đầy đủ, lớp mỡ dưới da cũng chưa phát triển cho đến tận quý 3 (tuần 34).
Ở trẻ đẻ non trước 34 tuần thai, lớp sừng chưa trưởng thành làm tăng mất nước qua thượng bì (transepidermal water loss – TEWL), tăng khả năng mất nước, mất nhiệt, rối loạn điện giải. Trẻ đẻ non 25 tuần có mức độ TEWL gấp 15 lần so với trẻ đẻ đủ tháng. Ở hầu hết các trẻ sinh non, chức năng hàng rào da sẽ hoàn thiện khi trẻ đạt 2-3 tuần tuổi, và có thể mất đến 4-8 tuần nếu trẻ sinh non với cân nặng quá thấp. Một số biện pháp băng bịt cũng như dùng dưỡng ẩm tại chỗ có thể giảm TEWL.
Các cấu trúc phần phụ trung bì đã phát triển tuy nhiên chưa hoàn thiện. Do ảnh hưởng của androgen từ mẹ và thời kì thai nhi, tuyến bã thường phì đại trong vài tuần sau sinh. Điều hoà nhiệt qua cơ chế giãn co mạch máu ở nhú bì còn hạn chế và chức năng tuyến eccrine cũng chưa hoàn chỉnh.
Tuyến mồ hôi ở trẻ sơ sinh chưa hoàn thiện và chưa phản ứng đầy đủ với các kích thích bên ngoài. Khả năng tiết mồ hôi tỉ lệ với tuổi thai. Ở những trẻ đẻ non, những ngày đầu tiên có thể không tiết mồ hôi. Trẻ sinh trước 36 tuần thường không có phản ứng tiết mồ hôi đáp ứng với nhiệt và sẽ có lúc khoảng 2 tuần tuổi, bắt đầu ở vùng trán, sau đó đến thân mình và các chi.
1.2. Sinh lý
Có sự khác biệt về hệ vi sinh ở da trẻ sinh thường với trẻ sinh mổ. Trẻ sinh mổ có hệ vi sinh vật ở da tương tự ở da mẹ là Staphylococcus, Corynebacterium, Propionibacterium, trẻ sinh đường âm đạo chủ yếu là Lactobacillus, Prevotella, Sneathia.
Trẻ sơ sinh, bề mặt da có tính kiềm nhẹ, pH từ 6.34-7.5 (người lớn là 5-5.5) và phụ thuộc vào vị trí giải phẫu. Nguyên nhân là do da trẻ tiếp xúc với dịch ối có tính kiềm trong suốt quá trình thai nhi. pH kiềm làm tăng hoạt động của enzim serine proteases, làm thoái hóa các desmosome giữa các tế bào sừng dẫn đến sự bong vảy da trong những ngày đầu đời.
Phản ứng hydrat hóa ở da ở trẻ sơ sinh cũng khác biệt so với người lớn. Khi mới sinh ra, da trẻ thường cứng và khô hơn so với người lớn. Trong vòng 30 ngày đầu, da trẻ mềm dần do sự tăng hydrat hóa da, và giảm dần ở tuổi trưởng thành. Cơ chế chính để lớp sừng bảo tồn hydrat hóa là lipid gian bào, cầu nối desmosome, ceramid, phức hợp giữ nước gian bào (yếu tố dưỡng ẩm tự nhiên – NMF). NMF bao gồm: serine, glycine, pyrrolidone-5-carboxylic acid, arginine, ornithine, citrulline, alanine, histidine, và urocanic acid. Nồng độ NMF ở trẻ em thấp hơn người lớn nhưng ở 2 tuần đầu tiên thì cao hơn, có thể là cơ chế để kiềm hóa pH da và hydrat hóa da ngay sau sinh.
Bảng 1: Sự khác nhau giữa da trẻ em và người lớn | ||
Da trẻ em | Da người lớn | |
Cấu trúc | ||
Độ dày thượng bì | Mỏng | Dày |
Lipid | Ít | Nhiều |
Melanin | Ít | Nhiều |
Chức năng sinh lý | ||
Tiết mồ hôi | Ít | Nhiều |
pH | Cao | Thấp |
Yếu tố dưỡng ẩm tự nhiên | Thấp | Cao |
TEWL | Cao | Thấp |
Hấp thụ qua da | Nhiều | Ít |
Nguy cơ nhiễm độc chất qua da cũng tăng lên ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Hấp thu qua da qua 2 con đường chính: (1) thông qua tế bào sừng và lớp malpighi thượng bì (qua thượng bì) và (2) qua lỗ nang lông, tuyến bã (qua phần phụ). Một số chất được báo cáo là nguy cơ gây nhiễm độc qua da ở trẻ em như bảng dưới đây:
Bảng 2: Các chất dùng ngoài da có thể gây nhiễm độc toàn thân
Thành phần | Sản phẩm | Nhiễm độc qua da |
Cồn (alcohol) | Sát khuẩn da | Hoại tử xuất huyết, tăng nồng độ cồn trong máu |
Aniline | Thuốc nhuộm | Methemoglobin, tử vong |
Benzocain | Gây tê niêm mạc (kem đánh răng) | Methemoglobin |
Acid boric | Bột chống hăm | Nôn, tiêu chảy, đỏ da toàn thân, động kinh, tử vong |
Calcipotriol | Chức ức chế vitamin D3 | Tăng calci máu, |
Chlorhexidin | Sát khuẩn tại chỗ | Hấp thu toàn thân nhưng không gây độc |
Corticoid | Chống viêm | Teo da, giãn mạch, suy thượng thận |
Diphenhydramin | Chống ngứa | Hội chứng kháng cholinergic |
Lidocain | Gây tê tại chỗ | Xuất huyết, động kinh |
Neomycin | Kháng sinh | Điếc thần kinh |
Povidin | Kháng khuẩn | Suy giáp |
Acid salicylic | Bạt sừng | Toan chuyển hoá |
Tacrolimus | Điều hào miễn dịch | Tăng nồng độ chất ức chế miễn dịch trong máu |
Ure | Dưỡng ẩm | Tăng ure máu |
2. CÁC HIỆN TƯỢNG SINH LÝ Ở DA TRẺ SƠ SINH
2.1. Chất gây (vernix caseosa)
Là chất dạng proteinlipid, màu trắng, hình thành do tuyến bã và các tế bào keratinocyte từ quý 3 của thai kì. Trẻ đẻ non dưới 28 tuần hoặc cân nặng dưới 1000g thường không có chất gây. Chất gây có nhiều chức năng như giữ nước, giữ nước, khiến pH của da giảm dần từ trung tính đến 5-5.5, miễn dịch (tìm thấy thành phần kháng vi sinh vật trong chất gây).
Hình 1: Chất gây ở trẻ sơ sinh (nguồn: Internet)
2.2. Bong da sinh lý (Desquamatuion of skin)
Da trẻ sơ sinh đủ tháng thường mềm, mịn và mượt. Sau 24-36h, có thường tượng bong vảy da sinh lý và có thể kéo dài đến tận 3 tuần. Bong vảy da ngay sau sinh gợi ý đến một số bất thường như thiếu máu trong tử cung, vảy cá bẩm sinh…
2.3. Mảng xanh tím dạng lưới ở da (Cutis marmorata)
Cutis marmorata là một mảng màu xanh tím dạng lưới ở da, thường ở thân mình, chân tay ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Theo một số thống kê, có thể gặp cutis marmorata ở 50% số trẻ sơ sinh. Đây là một hiện tượng sinh lý giãn các mao mạch và mạch máu nhỉ đáp ứng với lạnh và mất đi khi ấm trở lại. Nếu không mất đi sau khi ủ ấm, cần loại trừ giãn mạch dạng cutis marmorata bẩm sinh. Hiện tượng này có thể kéo dài vài tuần đến vài tháng và không cần phải can thiệp. Ở một số trẻ mắc hội chứng Down, ba nhiễm sắc thể 18, hội chứng Cornelia de Lange, hiện tượng này có thể kéo dài hơn.
Hình 2: Cutis marmorata ở thân mình (nguồn: Internet)
Hình 3: Cutis marmorata ở hai chân (nguồn: Internet)
Ở một số trẻ, cutius marmorata có màu trắng (cutis marmorata alba) do mạch máu nằm sâu, và cũng không cần thiết phải can thiệp lâm sàng
2.4. Thay đổi màu da của Harlequin (Harlequin color change)
Có thể thấy ở trẻ đủ tháng nhưng thường gặp hơn ở trẻ đẻ non. Lưu ý đây không phải là bệnh vảy cá Harlequin. Tỉ lệ gặp ở 10% trẻ khoẻ mạnh. Thường xảy ra từ ngày thứ 2 đến thứ 5, nhưng có thể xảy ra từ vài giờ sau sinh cho đến tuần tuổi thứ 2-3. Hiện tượng này thường xảy ra khi trẻ nằm nghiêng, một nửa cơ thể đỏ còn một nửa cơ thể thì trắng lại, thường tồn tại từ 30 giây đến 20 phút. Thay đổi màu da của Harlequin liên quan đến sự chưa trưởng thành của trung tâm dưới đồi trong việc điều hoà mạch máu ngoại biên.
Hình 4: Thay đổi màu da của Harlequin ở mặt và bìu trẻ sơ sinh (nguồn: Internet)
2.5. Chứng xanh tím đầu cực (acrocyanosis)
Da trẻ sơ sinh mới đẻ sau khi gắng sức (ho, thở mạnh, khóc…) có thể chuyển màu đỏ tím, tím nhất là ở bàn tay, bàn chân, môi nhưng thường chuyển nhanh sang màu hồng, được gọi là chứng xanh tím đầu cực (acrocyanosis). Hiện tượng này được xem là sinh lý bình thường. Tuy nhiên, cần phân biệt với các tình trạng như động kinh, rối loạn tim mạch, cơn ngừng thở… Cơ chế là do những thay đổi vận mạch làm co mạch ngoại vi, có thể tồn tại trong 24-48 giờ sau sinh.
Hình 5: Acrocyanosis ở trẻ sơ sinh (nguồn: Internet)
Kết luận:
Mức độ hoàn thiện hàng rào da của trẻ sơ sinh tỉ lệ theo tuổi thai và thượng bì hoàn chỉnh cấu trúc ở tuần 34 thai kì. Tuy nhiên, trong 2-3 tuần đầu cuộc sống, da trẻ sơ sinh chưa hoàn chỉnh về mặt chức năng. So với da người lớn, da trẻ sơ sinh mỏng hơn, dễ nhiễm trùng, dễ tổn thương và nhiễm độc hơn, mất nước qua thượng bì cao, pH cao hơn…và kèm theo một số hiện tượng sinh lý. Do vậy, trẻ sơ sinh cần được phát hiện sớm những vấn đề bất thường về da và chăm sóc một cách đặc biệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài viết: BSNT Hồ Phương Thùy
Đăng bài: Phòng CTXH
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.