U máu

Ngày đăng: 09/02/2015 Admin

U máu là một bệnh lý mạch máu thường gặp ở trẻ em; 59% xuất hiện khi mới sinh, 40% trong tháng đầu, 30% ở trẻ đẻ non dưới 1,8kg cân nặng. Cần phân biệt u  máu (Hemangioma) với dị dạng mạch (Vascular Malformation) do đặc điểm bệnh học và sinh học hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, cần chẩn đoán đúng và có hướng điều trị thích hợp cũng như tiên lượng trước, sau điều trị. 

– U máu là do tăng sinh tế bào nội mạch tiến triển qua 3 giai đoạn: tăng sinh, ổn định, thoái triển.

– Dị dạng mạch là kích thước thể tích mạch, độ chun giãn không bình thường, không có sự tăng sinh bất thường của tế bào nội mạch, mạch lớn lên tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của trẻ, tiến triển có thể đơn giản, phức tạp hoặc phối hợp. Dị dạng mạch có thể là mao mạch, bạch mạch, tĩnh mạch, động mạch.

I. CĂN NGUYÊN

Có nhiều giả thuyết liên quan đến căn nguyên gây u máu:

– Từ phôi thai, do di tích của trung bì phôi thai

– Do nhiễm virus gây u nhú trên người, tiếng Anh còn gọi Human Papuloma virus (HPV) gây mất kiểm soát điều hòa tăng sinh tế bào nội mạch của mạch máu.

– Do nội tiết: người ta thấy nồng độ cao của 17-Beta Estradiol ở trẻ u máu.

– Heparine do các dưỡng bào tiết ra gây kích thích tế bào sợi và tế bào nội mạch tăng ở các trẻ u máu.

II. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ TIẾN TRIỂN

2.1 Triệu chứng lâm sàng:

Có 3 loại khác nhau cần được phân biệt:

– U hạt máu ở da hay còn gọi u máu nông. Loại u máu này có diện tích rộng, hẹp khác nhau, màu đỏ, lúc đầu nhẵn bằng phẳng với mặt da, sau đó gồ lên, sáng hơn, dùng hai ngón tay cái ấn giãn ra có thể mất màu hồng, sau đó trở lại màu cũ khi bỏ tay ra.

– U máu dưới da hay còn gọi u máu sâu là khối u dưới da gồ lên so với vùng da lành, nóng, nhưng không thấy mạch đập khi ấn ngón tay.

– Màu da trên nền u bình thường hoặc nhạt, hoặc tím, hoặc giãn mao mạch.

– U hỗn hợp là hình ảnh hay gặp nhất mang đặc điểm của 2 loại trên, thương tổn đơn lẻ hoặc nhiều u. Vị trí u máu có thể bất kỳ nhưng thường gặp ở đầu cổ (tỷ lệ 50-75%), kích thước thường dưới 3cm đường kính (tỷ lệ 60-80%).

2.2 Tiến triển:

Tiến triển theo 3 giai đoạn:

– Giai đoạn tăng sinh: Thường diễn ra trong 3 tháng, nhưng có khi diễn ra trong 6 tháng với u máu nông, 8-10 tháng với u máu sâu. Trong giai đoạn này, 80% u máu tăng gấp đôi kích thước trong đó khoảng 5% phát triển ồ ạt, có thể đe dọa tính mạng, ảnh hưởng chức năng và thẩm mỹ của trẻ.

– Giai đoạn ổn định: Sau giai đoạn tăng sinh, u máu dần dần ổn định cả kích thước và dấu hiệu lâm sàng, kéo dài đến tháng thứ 18-20.

– Giai đoạn thoái triển: Giai đoạn này chậm thời gian đầu màu da nhạt dần sau đó u máu dưới da xẹp dần, nhưng chậm hơn. Sự thoái triển này xảy ra đến 70-80% các trường hợp sau 6 tuổi. Sự thoái triển của u máu dưới da thường chậm hơn u máu da.

III. CHẨN ĐOÁN

3.1 Chẩn đoán xác định:

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào sự tiến triển của 3 giai đoạn qua theo dõi, thăm khám lâm sàng.

Điều quan trọng là phải phân biệt thương tổn là u máu hay dị dạng mạch máu? 

U máu ở giai đoạn nào? Tăng sinh hay ổn định hay thoái triển.

– Siêu âm có thể giúp chẩn đoán trong giai đoạn tăng sinh và các u máu lớn.

– Cộng hưởng từ hay chụp cắt lớp có thể giúp ích đối với các trường hợp u máu có biến chứng đe dọa đến tính mạng trẻ.

– Chụp mạch nên chỉ định khi cần nút mạch.

– Sinh thiết: Thường không cần thiết vì hỏi tiền sử bệnh nhân và các dấu hiệu có trên lâm sàng sẽ biết u máu hay dị dạng mạch.

3.2. Chẩn đoán phân biệt:

– U máu nông với:

o Giãn mao mạch hoặc giai đọan đầu của u máu nông.

o Dị dạng mao mạch.

 Cần phải theo dõi trong những tháng đầu sau sinh để phân biệt chẩn đoán.

– U máu sâu với:

o Những u máu lành tính bẩm sinh. Loại u máu này đã đạt tới sự tăng sinh cực điểm của tế bào nội mạch ngay từ khi mới sinh. Loại u máu này chia lần 2 loại:

§ U máu bẩm sinh thoái triển nhanh.

§ U máu bẩm sinh không thoái triển.

Các loại u máu này thường không cần can thiệp.

– U máu sâu lành tính mắc phải với:

o U nguyên bào mạch.

o U mạch nội mô dạng Kaposi

o Dị dạng tĩnh mạch

o Dị dạng bạch mạch

o Dị dạng động – tĩnh mạch

o Loạn sản phôi mạch máu.

IV. ĐIỀU TRỊ

4.1. Điều trị:

– Đối với u máu thường thoái triển tự phát ở tuổi 5-12 (75-80%) không để lại di chứng.

Cần theo dõi vị trí, kích thước, tốc độ phát triển, có thể điều trị bằng Laser, đốt điện…

– Đối với u máu có thể gây biến chứng nặng và gây nguy hiểm cho trẻ như u máu mi mắt trên gây chèn ép nhãn cầu, u máu lan tỏa dạng giãn mao mạch thường có biến chứng loét.

U máu hình râu quai nón vùng cổ gây chèn ép đường hô hấp… cần được theo dõi để có biện pháp xử lý như cắt bỏ, nút mạch máu…

– Một số phương pháp điều trị khác như tia xạ, áp lạnh bằng khí nitơ lỏng ở nhiệt độ âm, corticoids, laser có bước sóng 1062nm đối với các bớt máu nông, phẫu thuật cắt bỏ, tạo hình vạt da…

4.2. Phẫu thuật bớt máu, dị dạng mạch máu:

Từ năm 2007-2009 khoa phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ Viện Da liễu Quốc gia đã phẫu thuật được 99 bệnh nhân bớt máu bẩm sinh.

– Năm 2007: 17 bệnh nhân

– Năm 2008: 43 bệnh nhân

– Năm 2009: 39 bệnh nhân

4.3. Điều trị bớt máu bằng Pulsed dye laser (laser màu) bước sóng 595nm

từ tháng 3 /2009- tháng 12/2009:

Bệnh nhân điều trị: 220/89 (lượt/bệnh nhân)

Tuổi trung bình: 21  

Trong đó: nam: 23; nữ: 66 bệnh nhân (chiếm 74%)

• Chẩn đoán lâm sàng:

– Bớt máu phẳng: 70 bệnh nhân

– Dãn mạch mũi: 17 bệnh nhân

– Khác: 02

• Vị trí tổn thương:

– Vùng mặt: 88 bệnh nhân

– Cẳng tay: 01 bệnh nhân

– Vị trí khác: không có

4.4. Điều trị bằng YAG-KTP: Từ năm 2005 – 2009:

• Số bệnh nhân đến điều trị: 66

• Tuổi trung bình: 28 

• Trong đó: 

– nam:10 bệnh nhân

– nữ: 56 bệnh nhân chiếm 84,8%

• Chẩn đoán lâm sàng:

– Bớt máu phẳng: 63 bệnh nhân

– Khác: 03

• Vị trí tổn thương: 

– vùng mặt, cổ 99%

– vùng tay, chân: 01%

     

 Ban CNTT Bệnh viện Da liễu TƯ


Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn