Sùi mào gà ở trẻ em

Ngày đăng: 21/09/2016 Admin

1.   Đại cương:
Sùi mào gà (Condylomata acuminata) là bệnh do nhiễm virus Human papillomavirus (HPV) biếu hiện ở vùng sinh dục, đặc trưng bởi các sẩn hoặc mảng có màu da hoặc tăng sắc tố. Sùi mào gà có thể lây truyền qua đường tình dục hoặc không. Ở trẻ nhỏ, HPV đa số không phải do lây truyền qua đường tình dục.
2.   Dịch tễ:
Dữ liệu về dịch tễ bệnh sùi mào gà trẻ em còn hạn chế, và tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không rõ. Theo ước tính, độ tuổi trung bình mắc bệnh ở trẻ em từ khoảng 2,8 – 5,6 tuổi. Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở trẻ nữ.
3.   Căn nguyên:
Sùi mào gà là do HPV – một loại virus DNA sợi kép, hiện nay đã tìm ra hơn 130 type. Mặc dù sùi mào gà ở người lớn thường do HPV type 6 và 11 gây ra, trong khi đó type HPV gây biểu hiện sùi mào gà của trẻ em rất đa dạng. Type HPV hay gây tổn thương hạt cơm ở da (type 1-4, đặc biệt là type 2 và 3) thường được phát hiện ở tổn thương sùi mào gà ở trẻ em. Một nghiên cứu tổng quan năm 2010, cho thấy trên 200 bệnh nhân sùi mào gả trẻ em thì có 56% do type 6 hoặc 11; 12% do type 1-4; 4% là type 16 hoặc 18.
Các con đường nhiễm HPV ở trẻ em thường gặp:
– Qua tiếp xúc với người chăm sóc trực tiếp.
– Tự lây truyền từ tổn thương do HPV gây ra ở vùng niêm mạc hoặc da.
– Do bị lạm dụng tình dục.
– Truyền từ mẹ bị nhiễm HPV sinh dục trong quá trình sinh nở.
– Từ đồ dùng như khăn, đồ lót bị nhiễm HPV (tuy nhiên khả năng này rất ít khi xảy ra).
4.   Biểu hiện lâm sàng:
Sùi mào gà bắt đầu bởi biểu hiện tổn thương sẩn mềm màu da, hồng hoặc màu nâu, đường kính khoảng một vài mm. Sau vài tuần đến vài tháng, các tổn thương có thể hợp lại thành mảng lớn hơn hay còn được gọi “tổn thương dạng súp lơ”. Ở trẻ nam, sùi mào gà thường gặp ở vị trí quanh hậu môn và ít thấy ở thân dương vật. Ở trẻ nữ có thể gặp ở quanh hậu môn, âm hộ, màng trinh, phía ngoài âm đạo và khu vực quanh lỗ niệu đạo. Một vài trường hợp có thể gặp ở bên trong niêm mạc âm đạo và trực tràng.
Sùi mào gà thường ít có triệu chứng cơ năng, có thể gây ngứa, đau hoặc chảy máu.

5.   Chẩn đoán:
Chẩn đoán xác định bệnh sùi mào gà chủ yếu dựa trên triệu chứng lâm sàng. Một số trường hợp lâm sàng không rõ có thể làm thêm giải phẫu bệnh và PCR HPV.
Chẩn đoán phân biệt:
– U mềm lây.
– Sẩn hình tháp quanh hậu môn (Pyramidal perianal papules): là tổn thương búi trĩ hình tháp, thường đơn độc, đường kính < 2cm, thường gặp ở trẻ nữ. Bệnh thường tự thoái triển theo thời gian.
– Sẩn giang mai.
– Bớt thượng bì.
6.   Điều trị:
Có nhiều phương pháp điều trị sùi mào gà ở trẻ em, bao gồm các biện pháp can thiệp cơ học và hóa học.
– Thuốc bôi: thuốc được khuyến cáo có thể dùng ở trẻ em bao gồm: Imiquimod và podophyllotoxin.
+ Imiquimode: dạng kem 5% hoặc 3,5 %. Thời gian điều trị kéo dài từ 6-12 tháng. Chưa có bằng chứng rõ rệt về độ an toàn khi sử dụng cho trẻ <12 tuổi. Tác dụng phụ hay gặp: gây kích ứng tại chỗ cho trẻ.
+ Podophyllotoxin: 0,5%; 25%. Hiệu quả điều trị khá cao, tuy nhiên khó dung nạp ở trẻ em.
Điều trị sùi mào gà ở trẻ em bằng thuốc bôi có tỷ lệ tái phát khá cao.
– Laser/ phẫu thuật:
+ Thường để điều trị trong trường hợp tổn thương lớn (> 1 cm) và không đáp ứng với điều trị thuốc bôi tại chỗ. Có thể sử dụng phương pháp áp lạnh, laser CO2, cắt bỏ tổn thương…
+  Nhược điểm: gây đau và trong một số trường hợp để lại các sang chấn tâm lý cho trẻ.
– Một số phương pháp điều trị khác đã được sử dụng: acid tricloacetic, 5 FU, sinecatechins, cidofovir tại chỗ, cimetidine. Tuy nhiên, hiệu quả và tính an toàn đối với trẻ em chưa được làm rõ.
Trong nhiều trường hợp, sùi mào gà ở trẻ em có thể tự thoái triển trong vòng 2 năm. Các phương pháp điều trị thường được áp dụng khi tổn thương kèm theo các triệu chứng ngứa, đau, chảy máu, cảm thấy khó chịu, và trong trường hợp tổn thương kéo dài trên 2 năm.

 

Tin bài và ảnh: BSNT Nguyễn Thị Huyền Thương
Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT

 

Tài liệu tham khảo:

1.     Latanya T Benjamin, Moise L Levy, et al (20150. Condylomata acuminata (anogenital warts) in children. www.uptodate.com.
2.     Syrjänen S (2010). Current concepts on human papillomavirus infections in children. APMIS, 118: 494–509. DOI: 10.1111/j.1600-0463.2010.02620.x.
3.     Amy Ornstein, Todd Hatchette (2012). Human papillomavirus and anogenital warts in children. Canadian Medical Association or its licensors, 184(3). DOI:10.1503/cmaj.111021.
Kelly A. Sinclair, Charles R. Woods, Sara H. Sinal (2011). Venereal Warts in Children. Pediatrics in Review, Vol.32 No.3, 115-121. Doi: 10.1542/pir.32-3-115.

 

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn