TẬT NHỔ TÓC

Ngày đăng: 14/11/2019 Admin
  1. ĐẠI CƯƠNG

Tật nhổ tóc là rụng tóc không sẹo do chấn thương, là một rối loạn ám ảnh cưỡng chế hay rối loạn vận động dập khuôn (OCDs). Bệnh được đặc trưng bởi sự nhổ tóc ở bất kì vị trí nào, lặp đi lặp lại dẫn tới rụng tóc nhưng là do chính hành động của bệnh nhân.

  1. DỊCH TỄ HỌC
  • Thường bắt đầu ở lứa tuổi thanh thiếu niên, người lớn hay gặp những người ít vận động, hoạt động tĩnh tại.
  • Tỷ lệ mắc lên tới 3,5%.
  • Tỷ lệ nữ/nam = 9/1.
  1. LÂM SÀNG
  • Vùng rụng tóc không đối xứng, đa hình và bờ không đều
  • Tóc gãy ở các độ dài khác nhau, mật độ tóc bình thường, test kéo tóc âm tính.

(Test kéo tóc dùng để đánh giá mức độ tiến triển của rụng tóc: nắm khoảng 50 – 60 sợi tóc giật mạnh từ gốc đến ngọn. Test dương tính khi có 6 sợi tóc bị rụng, chứng tỏ quá trình rụng tóc đang tiến triển. Tuy nhiên, nếu 3 sợi tóc bị rụng ở một số vùng khác nhau của da đầu, test này cũng được cho là dương tính)

  • Vị trí rụng tóc có thể ở da đầu (thường vùng đỉnh và trán), lông mày, lông mi, lông mu và thường bị nhiều hơn một vị trí.
  • Thường kèm theo một số tic vận động khác như mút hay cắn móng tay. Một số trường hợp kèm theo nhai và ăn tóc dẫn đến tắc ruột do búi tóc (trichobezoar).

  1. CẬN LÂM SÀNG

Trichoscopy: 2 dấu hiệu khá đặc hiệu trong bệnh:

-Sợi tóc gẫy với nhiều độ dài khác nhau

– Dấu hiệu tóc hình ngọn lửa (flame hair): sợi tóc gãy với đầu mờ giống hình dạng của ngọn lửa

  • Là dấu hiệu rất đặc hiệu cho tật nhổ tóc và không gặp ở bệnh khác
  • Đó là kết quả của sự phục hồi phần còn lại của sợi tóc khỏe mạnh sau khi chịu một lực kéo mạnh và rất ít có khả năng xảy ra ở mái tóc mỏng manh và dễ gãy.

-Ngoài ra có thể thấy dấu hiệu black dot, sợi tóc hình xoắn, hình chữ V…

Sinh thiết:

  • Hỗ trợ chẩn đoán nhưng không bắt buộc.
  • Rụng tóc không sẹo, không viêm, các nang tóc bị tổn thương thứ phát sau các tác động bên ngoài
  • Số lượng các nang tóc là bình thường

  1. CHẨN ĐOÁN: Chẩn đoán tật nhổ tóc: khi có đủ các tiêu chuẩn DSM-IV:
  1. Nhổ tóc thường xuyên gây rụng tóc đáng kể.
  2. Tăng cảm giác căng thẳng trước khi nhổ tóc hoặc khi cố gắng chống lại hành vi nhổ tóc.
  3. Hài lòng hoặc nhẹ nhõm sau khi nhổ tóc.
  4. Rối loạn không do một rối loạn tâm thần khác hay một bệnh lý chung khác gây ra.
  5. Bệnh gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xã hội, nghề nghiệp.

Chẩn đoán mức độ nặng: dựa vào thang điểm Massachusetts General Hospital Hairpulling Scale.

  1. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
  • Rụng tóc từng mảng do nguyên nhân khác.
  • Nấm da đầu.
  1. ĐIỀU TRỊ

7.1. Cơ chế bệnh sinh của tật nhổ tóc

  • Việc điều trị chủ yếu đánh vào cơ chế sinh lý còn cơ chế giải phẫu thì đến nay vẫn chưa có phương pháp nào tác động được.

7.2. Điều trị cụ thể

  • Không dùng thuốc là lựa chọn đầu tiên, gồm: giáo dục bệnh nhân, tâm lý trị liệu, thôi miên.
  • Dùng thuốc: hiện tại có 3 thuốc chứng minh có hiệu quả trong tật nhổ tóc.
  • Olanzapin: thuốc chống loạn thần. Trong nghiên cứu của Van, 25 bệnh nhân tật nhổ tóc chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm dùng olanzapin ngày 1 lần, khởi đầu liều thấp 10mg sau đó tăng liều mỗi ngày tùy đáp ứng lâm sàng và dùng giả dược trong 12 tuần. Kết quả 85% (11/13) bệnh nhân trong nhóm dùng thuốc cải thiện so với 17% bệnh nhân trong nhóm chứng. Liều trung bình 10,8 ± 5,5 mg/ngày. Chú ý tác dụng phụ như buồn ngủ, tăng cân (khoảng 10% bệnh nhân).
  • Fluoxetin: thuốc ức chế tái hấp thu thụ thể serotonin (SSRIs), liều dùng 60 mg/ngày, hiệu quả trên các trường hợp đơn lẻ.
  • N-acetylcystein.

7.3. Về N-acetylcystein

-Cơ chế tác dụng:

  • Glutamate là chất dẫn truyền thần kinh kích thích trong hệ thần kinh trung ương
  • Lượng glutamate quá mức  tổn thương hệ thần kinh
  • Rối loạn chức năng hệ glutamateric đã được thấy ở các bệnh nhân bị rối loạn ám ảnh (OCD) trong đó có tật nhổ tóc

-Việc sử dụng các chất điều biến glutamat như N-acetylcystein có thể giúp nồng độ glutamate trong não xuống mức thấp hơn

  • N-Acetylcystein là một chất chống oxy hóa phổ biến nhất, được biết đến với tác dụng bảo vệ gan
  • Qua gan  cystein giúp kích thích protein đồng vận chuyển ngược chiều cystein-glutamat
  • Sự tái hấp thu cystein  đẩy glutamat ra khoảng gian bào, kích thích các thụ thể chuyển hóa glutamat làm giảm sự giải phóng synap của glutamat

-Liều dùng 1200 mg/ngày trong 2 tuần đầu, sau đó 1200mg/ngày x 2 lần/ngày trong 3 – 4 tháng. Với người lớn đã chứng minh được hiệu quả, trẻ em hiệu quả chưa chắc chắn.

-Grant thử nghiệm 50 bệnh nhân tật nhổ tóc người lớn chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm 1 dùng N-acetylcystein 1200mg x 2 lần/ngày, nhóm 2 dùng giả dược trong 12 tuần. Kết quả: 56% nhóm dùng thuốc có hiệu quả tốt và rất tốt so với 16% ở nhóm giả dược, sau 9 tuần điều trị thấy được sự khác biệt về hiệu quả giữa 2 nhóm, không ghi nhận tác dụng phụ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Bloch, dùng thuốc với cùng phác đồ như trên ở 39 trẻ từ 8 – 17 tuổi thấy 25% ở nhóm điều trị đáp ứng so với 21% ở nhóm chứng, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, tác giả này kết luận thuốc N-acetylcystein không có tác dụng trên tật nhổ tóc ở trẻ em.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Pereyra A.D. và Saadabadi A. (2019). Trichotillomania. StatPearls. StatPearls Publishing, Treasure Island (FL).
  2. Johnson J. và El-Alfy A.T. (2016). Review of available studies of the neurobiology and pharmacotherapeutic management of trichotillomania. Journal of Advanced Research, 7(2), 169–184.
  3. Grant J.E., Odlaug B.L., và Kim S.W. (2009). N-acetylcysteine, a glutamate modulator, in the treatment of trichotillomania: a double-blind, placebo-controlled study. Arch Gen Psychiatry, 66(7), 756–763Grant JE, Odlaug BL, Kim SW. N-acetylcysteine, a glutamate modulator, in the treatment of trichotillomania: A double-blind, placebo-controlled study. Arch Gen Psychiatry. 2009; 66:756–63.
  4. Bloch MH, Panza KE, Grant JE, Pittenger C, Leckman JF. N-acetylcysteine in the treatment of pediatric trichotillomania: A randomized, double-blind, placebo-controlled add-on trial. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry. 2013;52:231–40.
  5. Van Ameringen M, Mancini C, Patterson B, Bennett M, Oakman J. A randomized, double-blind, placebo-controlled trial of olanzapine in the treatment of trichotillomania. J Clin Psychiatry. 2010;71:1336–43.

Bài viết: BSNT Nguyễn Doãn Tuấn

Đăng bài: Phòng CTXH

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn