Nevus comedonicus
Nevus comedonicus
Tật nhổ tóc là rụng tóc không sẹo do chấn thương, là một rối loạn ám ảnh cưỡng chế hay rối loạn vận động dập khuôn (OCDs). Bệnh được đặc trưng bởi sự nhổ tóc ở bất kì vị trí nào, lặp đi lặp lại dẫn tới rụng tóc nhưng là do chính hành động của bệnh nhân.
(Test kéo tóc dùng để đánh giá mức độ tiến triển của rụng tóc: nắm khoảng 50 – 60 sợi tóc giật mạnh từ gốc đến ngọn. Test dương tính khi có 6 sợi tóc bị rụng, chứng tỏ quá trình rụng tóc đang tiến triển. Tuy nhiên, nếu 3 sợi tóc bị rụng ở một số vùng khác nhau của da đầu, test này cũng được cho là dương tính)
Trichoscopy: 2 dấu hiệu khá đặc hiệu trong bệnh:
-Sợi tóc gẫy với nhiều độ dài khác nhau
– Dấu hiệu tóc hình ngọn lửa (flame hair): sợi tóc gãy với đầu mờ giống hình dạng của ngọn lửa
-Ngoài ra có thể thấy dấu hiệu black dot, sợi tóc hình xoắn, hình chữ V…
Sinh thiết:
Chẩn đoán mức độ nặng: dựa vào thang điểm Massachusetts General Hospital Hairpulling Scale.
7.1. Cơ chế bệnh sinh của tật nhổ tóc
7.2. Điều trị cụ thể
7.3. Về N-acetylcystein
-Cơ chế tác dụng:
-Việc sử dụng các chất điều biến glutamat như N-acetylcystein có thể giúp nồng độ glutamate trong não xuống mức thấp hơn
-Liều dùng 1200 mg/ngày trong 2 tuần đầu, sau đó 1200mg/ngày x 2 lần/ngày trong 3 – 4 tháng. Với người lớn đã chứng minh được hiệu quả, trẻ em hiệu quả chưa chắc chắn.
-Grant thử nghiệm 50 bệnh nhân tật nhổ tóc người lớn chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm 1 dùng N-acetylcystein 1200mg x 2 lần/ngày, nhóm 2 dùng giả dược trong 12 tuần. Kết quả: 56% nhóm dùng thuốc có hiệu quả tốt và rất tốt so với 16% ở nhóm giả dược, sau 9 tuần điều trị thấy được sự khác biệt về hiệu quả giữa 2 nhóm, không ghi nhận tác dụng phụ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Bloch, dùng thuốc với cùng phác đồ như trên ở 39 trẻ từ 8 – 17 tuổi thấy 25% ở nhóm điều trị đáp ứng so với 21% ở nhóm chứng, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, tác giả này kết luận thuốc N-acetylcystein không có tác dụng trên tật nhổ tóc ở trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài viết: BSNT Nguyễn Doãn Tuấn
Đăng bài: Phòng CTXH
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.