Tật giật tóc

Ngày đăng: 18/10/2016 Admin


Tật giật tóc (trichotillomania) là một rối loạn tâm lý đặc trưng bởi hành động tự giật tóc, nhổ tóc do một ý chí thôi thúc không cưỡng lại được. Kết quả dẫn tới rụng tóc. Bệnh ước tính gặp ở 4% dân số, gặp ở cả nam và nữ bất kỳ tuổi nào nhưng ở trẻ em hay gặp hơn, nhất là độ tuổi trước khi đi học và tuổi vị thành niên, dậy thì. Ở độ tuổi càng lớn, bệnh gặp ở trẻ gái nhiều hơn ở trẻ trai.
Nguyên nhân tật giật tóc

Nguyên nhân gây tật giật tóc chưa được biết rõ. Có một số điểm chú ý như sau:

– Có thể có gan gây xu hướng giật tóc.

– Thường gặp ở những người có rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

– Căng thẳng, lo âu là các yếu tố khởi phát bệnh.

– Liên quan với các hành vi lặp lại của cơ thể như tật cắn móng, cắn môi, nhai má, véo da.

– Các yếu tố thần kinh có thể liên quan tới tật giật tóc.
Đặc điểm lâm sàng tật giật tóc

Vị trí bệnh hay gặp nhất là vùng da đầu. Ngoài ra, lông ở các bộ phận khác như lông mày, lông mi, chân, vùng mu có thể bị giật. Vị trí tóc bị giật, bị rụng có thể thay đổi theo thời gian. Các sợi tóc trong vùng bị giật tóc có độ dài khác nhau. Người bệnh có hoặc không nhận thức được hành vi của chính họ. Nó thường diễn ra khi người bệnh đang thực hiện các hoạt động khác như xem tivi, đọc sách, học bài, nói chuyện điện thoại. Hoặc có khi hành động giật tóc làm thuyên giảm sự lo âu, rối loạn ám ảnh của họ. Nhiều bệnh nhân có hai khuynh hướng giật tóc này.

Rụng tóc do tật giật tóc có nhiều mức độ khác nhau, từ nhẹ cho tới nhiều, mất hết cả tóc trong vùng bị ảnh hưởng. Khi thăm khácm có thể thấy vùng rụng tóc ranh giới không đều trên da đầu, sợi tóc bị gãy có các kích thước khác nhau. Trẻ em thường giật tóc ở những nơi dễ đưa tay tới và ở bên phía của tay thuận. Vị trí hay gặp nhất là vùng trán-thái dương và vùng đỉnh đầu. Ngoài ra, còn có các dấu hiệu khác như vết xước, bầm máu hoặc đỏ da. Nếu thương tổn nang lông nhiều, lặp đi lặp lại có thể để lại sẹo không hồi phục.

Các biến chứng của tật giật tóc là nhiễm trùng da tại chỗ, viêm bờ mi, đau mạn tính, hội chứng ống cổ tay.

Chẩn đoán tật giật tóc dựa vào các đặc điểm:

– Thử nghiệm giật tóc âm tính

– Soi dưới đèn Wood không thấy dấu hiệu nhiễm nấm

– Soi da đầu dưới dermatoscope có thể thấy: giảm mật độ tóc, tóc gãy với các độ dài khác nhau, đầu mút của sợi tóc bị chẻ, có bột tóc, các sợi tóc tơ ngắn.

– Hình ảnh mô bệnh học cho thấy sợi tóc ở giai đoạn phát triển (catagen), sợi tóc bị loạn dưỡng, trung bì không bị viêm hoặc chỉ viêm nhẹ, các thân tóc bị gãy, nang lông có các nút có bản chất là mảnh vỡ của chất sừng, chất melanin.
Điều trị tật giật tóc

Cần giáo dục, tư vấn tâm lý cho các bệnh nhân có tật giật tóc. Ở trẻ em cần có sự giúp đỡ của bố mẹ: cắt tóc ngắn sát da đầu, đi tất tay, nhẹ nhàng nhắc nhở hành vi khi thấy trẻ giật tóc.

Đối với các trường hợp khó thay đổi hành vi, có thể sử dụng các thuốc chống trầm cảm ba vòng.
Tiến triển

Ở những trẻ còn nhỏ, tật giật tóc thường lành tính và có thể tự giới hạn, tự hết. Ở trẻ vị thành niên và ở người lớn, bệnh có xu hướng mạn tính, liên quan tới nhiều rối loạn tâm lý khác.

Ảnh 1A, B. Trẻ gái 8 tuổi với vùn rụng tóc trên đỉnh đầu do tật giật tóc. Các sợi tóc trong vùng bị gãy, rụng với các độ dài khác nhau (Ảnh: Bs. Trần Thị Huyền, Bệnh viện Da liễu Trung ương)

Bài và ảnh: BS. Trần Thị Huyền

Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT


Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn