U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
1. Đại cương
Corticoid dùng tại chỗ là một phương pháp điều trị, có từ những năm 1950, rất phổ biến trong các bệnh da liễu. Mặc dù tác dụng phụ corticoid đã được biết từ lâu như teo da, giãn mạch, bội nhiễm nấm..., nhưng gần đây tình trạng nghiện corticoid tại chỗ ngày càng được nhắc đến nhiều. Tuy nhiên, chưa có một thống nhất rõ ràng về định nghĩa, dấu hiệu lâm sàng của nghiện corticoid bôi. Tình trạng nghiện corticoid bôi là một tình trạng khó điều trị, cần phòng tránh và quản lý lâu dài.
Nghiện corticoid bôi được định nghĩa là tình trạng tổn thương da mới xuất hiện khi ngừng corticoid bôi. Tổn thương da mới có thể nặng hơn hoặc hình thái khác so với tổn thương da ban đầu. Ngoài ra, có thể kèm theo các vấn đề về tâm lý.
Các thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng nghiện corticoid bôi: topical corticosteroid/steroid addiction/withdrawal, red skin syndrome…
2. Yếu tố nguy cơ
3. Sinh bệnh học
4. Lâm sàng
Triệu chứng của nghiện corticoid bôi thường xuất hiện sau vài ngày cho đến vài tuần dừng sử dụng corticoid bôi.
Nổi bật của tình trạng nghiện corticoid bôi là các triệu chứng cơ năng như: cảm giác ngứa, châm chích, bỏng rát, đau kèm theo mất ngủ, trầm cảm. Tổn thương cơ bản thường gặp: ban đỏ, sẩn mủ dạng trứng cá/trứng cá đỏ, phù nề, tiết dịch, bong vảy da. Tổn thương có thể lan rộng ra các vùng da xung quanh không bôi corticoid trước đó. Một nghiên cứu trên 1085 bệnh nhân có triệu chứng của nghiện corticoid bôi thấy vị trí thường gặp nhất là mặt và sinh dục (99%), đa số ở phụ nữ (81%). Cảm giác châm chích và bỏng rát thường gặp nhất (65,5%) và triệu chứng phổ biến nhất là đỏ da (92,3%). Một số dấu hiệu đặc trưng được các tác giả mô tả là:
Ngoài ra, có thể xuất hiện các triệu chứng của dùng corticoid lâu dài như giãn mạch, teo da, rậm lông, bội nhiễm nấm...
Tiêu chuẩn chẩn đoán trong một nghiên cứu của Hiệp hội Da liễu Hoa Kỳ đưa ra:
(A) Tổn thương da xuất hiện sau vài ngày đến vài tuần ngừng sử dụng corticoid tại chỗ, đã dùng vài tháng trước đó. Tổn thương có thể nặng hơn so với trước khi điều trị.
(B) Tổn thương ban đầu xuất hiện chủ yếu ở vùng đã bôi corticoid trước đó, nhưng có thể lan ra rộng hơn.
(C) Các tổn thương tự thoái triển sau khi ngừng hẳn corticoid bôi một thời gian.
Một số tác giả chia tình trạng nghiện corticoid bôi thành các giai đoạn
Giai đoạn 1: Đỏ da cấp tính, phù nề, chảy dịch ngay sau vài ngày ngừng corticoid tại chỗ.
Giai đoạn 2: Bong vảy, khô, ngứa.
Giai đoạn 3: Bắt đầu phục hồi nhưng nhạy cảm với những kích thích rất nhỏ. Các đợt bùng phát và phục hồi xen kẽ nhau. Mức độ nhạy cảm giảm dần theo thời gian.
Giai đoạn 4: Hồi phục hoàn toàn, da trở về bình thường, có thể mất từ vài tuần đến vài năm
Theo lâm sàng, có thể chia tình trạng nghiện corticoid thành 2 thể:
5. Chẩn đoán phân biệt
Một số trường hợp khó để phân biệt với bệnh da viêm trước đó, cần lưu ý tình trạng nghiện corticoid bôi khi có các dấu hiệu:
Xét nghiệm mô bệnh học của tình trạng da này không đặc hiệu, do đó không dùng để chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt. Để phân biệt được với viêm da tiếp xúc dị ứng, có thể sử dụng test áp
6. Điều trị
Chưa có đồng thuận và hướng dẫn cụ thể thống nhất để điều trị tình trạng nghiện corticoid bôi, chủ yếu là giảm dần và cắt hoàn toàn corticoid bôi tại chỗ.
7. Tiên lượng
Tình trạng có thể cải thiện và khỏi sau vài tuần cho đến một năm, 76,7% trường hợp sẽ cải thiện trong vòng 3 tháng. Tuy nhiên có thể kéo dài dai dẳng trên 1 năm (khoảng 5% trường hợp), thậm chí kéo dài trên 5 năm.
8. Hiện tượng sợ corticoid bôi (corticoid phobia)
Vì kiến thức về các tác dụng phụ của corticoid ngày càng dễ tiếp cận, nhưng đôi lúc bị thái quá và hiểu chưa đầy đủ, hiện tượng sợ corticoid cũng bùng lên một cách nhanh chóng. Các bệnh nhân được kê đơn thuốc sử dụng trong điều trị bệnh da, mặc dù đã đúng chỉ định, liều lượng, cường độ corticoid phù hợp, không sử dụng corticoid hoặc không tuân thủ chỉ định. Đây cũng là một ảnh hưởng tiêu cực vì việc không tuân thủ điều trị làm việc kiểm soát bệnh khó hơn và mất nhiều thời gian hơn.
9. Phòng bệnh
Giải thích cho bệnh nhân được vai trò của corticoid đồng thời cùng các tác dụng phụ gặp phải khi dùng lâu dài để bệnh nhân tuân thủ điều trị, không sợ cũng như không lạm dụng corticoid bôi tại chỗ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hajar T, Leshem Y, Hanifin J, et al. A systematic review of topical corticosteroid withdrawal (‘steroid addiction’) in patients with atopic dermatitis and other dermatoses. J Am Acad Dermatol . 2015 Mar;72(3):541-549.e2.
2. Sean Yilong Tan et al (2021). Steroid Phobia: Is There a Basis? A Review of Topical Steroid Safety, Addiction and Withdrawal. Clin Drug Investig . 2021 Oct;41(10):835-842.
3. Berger T, Francis-Lyon P, Parker J, Friedman P, Sengar P, Owens J. Analysis of patient-reported symptoms with respect to TCS usage: a self-identified cohort of patients with RSS/TSA/TSW. J Am Acad Dermatol. 2017;76(6):AB44.
4. Li AW, Yin ES, Antaya RJ. Topical corticosteroid phobia in atopic dermatitis: a systematic review. JAMA Dermatol. 2017;153(10):1036–42
5. Ahuja K, Lio P. Topical Steroid Withdrawal Syndrome: A Retrospective Chart Review in a Specialty Center. Journal of Integrative Dermatology. Published online May 1, 2023
6. Chandrashekar B S, et al. Efficacy and safety of low dose oral isotretinoin for the treatment of steroid induced rosacea- a retrospective study, European Journal of Molecular & Clinical Medicine ISSN 2515-8260 Volume 09, Issue 06, 2022
7. Marissa Contento, Abigail Cline, Marian Russo. Steroid Phobia: A Review of Prevalence, Risk Factors, and Interventions. Am J Clin Dermatol . 2021 Nov;22(6):837-851. doi: 10.1007/s40257-021-00623-6. Epub 2021 Jul 21.
Viết bài: THS.BSNT Hồ Phương Thùy - Phòng Chỉ Đạo Tuyến
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
Viêm da dạng herpes (Dermatitis herpetiformis - Duhring-Brocq disease)
Phát ban đa dạng ở phụ nữ mang thai hay còn gọi là sẩn, mảng, mày đay và ngứa ở phụ nữ mang thai (pruritic urticarial papules and plaques of pregnancy- PUPPP) là tình trạng rối loạn viêm lành tính, hay gặp ở phụ nữ mang thai ở những tuần cuối thai kỳ hoặc ngay sau sinh. Trước đây tình trạng này còn được gọi là phát ban nhiễm độc ở phụ nữ mang thai hay phát ban nhiễm độc của Bourner khi mang tha
Bệnh mạch máu dạng mạng lưới (Livedoid vasculopathy)