Nấm da đầu Kerion

Ngày đăng: 05/10/2016 Admin


     Kerion là một áp-xe do nấm gây nên. Bệnh thường được gọi dưới tên kerion de Celse. Kerion có nguồn gốc tiếng La Mã cổ nghĩa là tổ ong, phản ảnh hình ảnh lâm sàng của bệnh. Celse là tên của một thầy thuốc nổi tiếng của La Mã cổ đại, người đầu tiên mô tả bệnh này. Tên đầy đủ của ông là Aulus Cornelius Celsus.

     Kerion thường gặp ở da đầu trẻ em nhưng vẫn có những trường hợp xảy ra ở người lớn. Ở đàn ông, thương tổn có thể gặp ở vùng râu cằm.
Nguyên nhân gây bệnh

     Kerion gây ra do đáp ứng miễn dịch của cơ thể với các loại nấm sợi. Các loài nấm hay gặp trong kerion là Micosporum canis, Trichophyton tonsurans, Trichophyton verrucosum, Trichophyton mentagrophytes. Các loài nấm này có thể lây từ người sang người do dùng chung vật dụng, hoặc lây từ vật nuôi trong nhà (chó, mèo) sang người. Riêng Trichophyton rubrum, loài nấm hay gây nấm da nhẵn, hiếm khi gây kerion.
Triệu chứng lâm sàng

     Bệnh thường xuất hiện ở da đầu nhưng có thể gặp ở các vị trí khác có phơi nhiễm với nấm như da mặt, cổ, chi trên, dễ bị chẩn đoán nhầm với áp-xe do vi khuẩn. Kích thước của áp-xe khoảng vài centimet, chỉ có một thương tổn đơn độc hoặc nhiều thương tổn.Trong ổ áp-xe chứa đầy các hốc mủ như sình lầy, nằm trên nền da viêm nề. Khi mủ chảy ra, khô để lại các mảng vảy tiết dày màu vàng. Tóc trong vùng thương tổn thường bị rụng. Ngoài ra, bệnh còn có các triệu chứng toàn thân khác như hạch vùng sưng to, sốt, mệt mỏi, các dát ngứa giống chàm (eczema).




Cận lâm sàng

     Soi thương tổn dưới đèn Wood (loại thiết bị phát ra tia UVA bước sóng dài) có thể thấy màu huỳnh quang vàng-xanh lá cây nếu nguyên nhân gây kerion là Microsporum canis. Tuy nhiên, nhiều trường hợp âm tính khi soi đèn    Wood do thương tổn viêm, mủ nhiều che lấp sự hiện diện của sợi nấm.

     Soi tươi dưới kính hiển vi có thể thấy sợi nấm nằm trong và ngoài sợi tóc. Cần nuôi cấy nấm để chẩn đoán loài nấm gây bệnh. Ngoài ra, có thể nuôi cấy tìm vi khuẩn gây bội nhiễm trong ổ áp-xe.
Chẩn đoán phân biệt

     Bệnh cần được chẩn đoán phân biệt với:

     – Viêm nang lông lan tỏa ở da đầu

     – Các bệnh nấm có mủ

     – Áp-xe do vi khuẩn

     – Chốc ở da đầu
Điều trị

     Điều trị kerion cần phối hợp giữa việc dùng thuốc chống nấm toàn thân với trích rạch, dẫn lưu mủ trong ổ áp-xe.

     Các thuốc chống nấm toàn thân (đường uống) như terbinafin, itraconazol, griseofulvin được sử dụng trong 6-8 tuần. Các thuốc chống nấm tại chỗ thường không có tác dụng do nấm xâm nhập sâu vào nang tóc.

     Có thể sử dụng kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn hoặc để chống bội nhiễm sau trích rạch thương tổn.

     Để chống nấm lan rộng trên da đầu, nên sử dụng dầu gội đầu chứa ketoconazol hoặc ciclopirox.

     Tóc trên thương tổn thường mọc lại sau khi đã hết nhiễm trùng, tuy nhiên, rụng tóc có thể vĩnh viễn trong những trường hợp nhiễm trùng kéo dài.

Bài và ảnh: BS. Trần Thị Huyền
Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT


Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn