Nevus comedonicus
Nevus comedonicus
Ca lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 44 tuổi, khởi phát bệnh trước khi đi khám bệnh 2 tuần với biểu hiện sẩn đỏ vùng dương vật. Sau đó, tổn thương tiến triển thành vết loét dần lan rộng. Bệnh nhân đến khám BV Da liễu TW.
Chúng tôi hỏi bệnh và thăm khám thấy tổn thương loét rộng vùng quy đầu dương vật, bờ vết loét nham nhở, nền vết loét cứng, ngứa ít. Ngoài ra, bệnh nhân có tổn thương sẩn sùi ở hậu môn. Một số sẩn cục rải rác hai cẳng chân, mông, ngứa nhiều đã có nhiều tháng trước đây.
Trước bệnh nhân có những biểu hiện như vậy, chúng tôi đặt ra các chẩn đoán bệnh có thể gây ra tổn thương ở vùng sinh dục ở bệnh nhân này là bệnh lây truyền qua đường tình dục (giang mai, hạ cam, herpes simplex sinh dục); chấn thương hoặc dị ứng thuốc. Khai thác tiền sử, chúng tôi không ghi nhận thấy bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc có khả năng gây dị ứng trước khi xuất hiện tổn thương và cũng không có yếu tố gây loét sinh dục do chấn thương. Trước thời điểm xuất hiện tổn thương sinh dục 4 tháng, bệnh nhân có tiền sử quan hệ tình dục ngoài luồng với đối tượng nguy cơ cao. Đặc biệt, bệnh nhân có bạn tình ở cả hai giới nam và nữ.
Bệnh nhân được làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán giang mai, HIV và xét nghiệm tế bào học dịch tổn thương tại vết loét. Kết quả xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu và ko đặc hiệu giang mai đều dương tính. Chúng tôi chẩn đoán bệnh ở bệnh nhân này là giang mai thời kỳ I hay giang mai sơ phát. Ngoài ra, xét nghiệm test nhanh HIV của bệnh nhân dương tính, chúng tôi đã tiến hành làm xét nghiệm khẳng định tình trạng nhiễm HIV của bệnh nhân.
Bệnh nhân được điều trị giang mai tại bệnh viện Da liễu Trung ương và gửi khám chuyên khoa Truyền nhiễm để điều trị HIV.
Chúng tôi cũng tư vấn cho bệnh nhân hiểu về nguy cơ lây nhiễm cho bạn tình và khuyên bệnh nhân thuyết phục các bạn tình của mình đến để làm xét nghiệm kiểm tra sàng lọc bệnh giang mai và HIV.
- Bàn luận:
+ Giang mai là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn giang mai gây nên. Tỉ lệ mắc giang mai trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng tăng. Tình trạng này có liên quan đến sự gia tăng quần thể quan hệ tình dục đồng giới và xu hướng quan hệ sớm, không an toàn ở thanh thiếu niên.
+ Bệnh giang mai có biểu hiện đa dạng, phức tạp, không chỉ ở da, niêm mạc mà còn có thể ở các cơ quan khác như tai, mắt, cơ xương khớp, tim mạch, thần kinh. Các triệu chứng có thể tiến triển, thay đổi trên cùng một bệnh nhân, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Vì vậy, giang mai còn được mệnh danh là “kẻ trá hình hoàn hảo”. Ngoài ra, có những trường hợp giang mai “kín”, bệnh nhân hoàn toàn không có biểu hiện lâm sàng gì cho đến khi được làm xét nghiệm kiểm tra. Vì vậy, những người có tiền sử tiếp xúc, quan hệ tình dục không an toàn hoặc có những biểu hiện nghi ngờ bệnh lây truyền qua đường tình dục nên đi khám bác sỹ chuyên khoa Da liễu để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
+ Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến loét vùng sinh dục, bệnh nhân cần được thăm khám kỹ để chẩn đoán chính xác nguyên nhân. Việc tự dùng thuốc bôi, thuốc uống khi chưa biết nguyên nhân có thể làm thay đổi triệu chứng ban đầu, làm sai lệch kết quả xét nghiệm dẫn đến trì hoãn trong việc chẩn đoán và điều trị đúng.
+ Bệnh nhân mắc giang mai có nguy cơ cao mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, trong đó có HIV. Đặc biệt, tỉ lệ này cao hơn ở quần thể người có quan hệ đồng giới.
+ Bạn tình hiện tại và trong vòng 1 năm của người mắc giang mai cần được đi khám, làm xét nghiệm giang mai và điều trị bệnh nếu có. Nếu bạn tình không được chẩn đoán và điều trị, bệnh nhân hoàn toàn có nguy cơ bị nhiễm lại khi có tiếp xúc tình dục lại, và đây cũng là mối nguy cơ tiềm ẩn lây lan trong cộng đồng.
Viết bài: TS.BS Nguyễn Thị Hà Vinh
Đăng bài: Phòng Công tác xã hội
Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.
Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.
U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.
Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.
Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.
Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.
Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.