Cảnh báo nguy cơ mắc một số bệnh lí da sau xăm hình

Ngày đăng: 26/10/2020 LISA

Xăm hình (hay còn gọi là tattoo) đã xuất hiện từ rất nhiều năm trước đây và ngày càng được các bạn trẻ yêu thích.Tuy nhiên gần đây, chúng tôi tiếp nhận các trường hợp bệnh nhân đến khám vì một số tổn thương da sau xăm hình.

Bệnh nhân sau xăm hình 3 tuần, đến khám với tổn thương sẩn đỏ, tròn gồ cao trên da, sờ chắc, trung tâm sẩn lõm, kích thước nhỏ phân bố rải rác vùng bụng trên nền xăm hình, có xu hướng tăng nhanh số lượng.

Quan sát kỹ tổn thương và khám soi bằng dermoscopy, làm tế bào học tại tổn thương, chúng tôi chẩn đoán bệnh nhân bị U mềm lây – một bệnh nhiễm trùng da do do virus Pox, thường lây truyền từ đường vào do các vết thương, vết xây xước trên da mà Xăm hình là yếu tố nguy cơ cao được hướng đến.

Hình 1: Bệnh nhân đến khám tại BV Da liễu Trung ương với tổn thương U mềm lây xuất hiện trên nền mực xăm

Hình 2: Hình ảnh sẩn đỏ, trung tâm có cấu trúc trắng, hình tròn, hình cỏ 4 lá trên dermoscopy và Hình ảnh của bệnh U mềm lây khi làm xét nghiệm tế bào học.

1. Xăm hình là gì ?

Xăm hình là hình thức tạo và lưu lại các hình vẽ lâu dai bằng việc đưa các loại mực màu vào da. Người xăm sẽ dùng kim hoặc máy xăm để đưa mực vào lớp trung bì da (hình minh họa dưới), như vậy, xăm hình cũng đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều vết thương nhỏ trên da.

Hình 3: Cấu trúc da và hình ảnh Mô bệnh học da khi xăm hình. Mực xăm được kim xăm đưa qua lớp Thượng bì, tới và lưu giữ ở lớp Trung bì của da (Mũi tên trắng)

2. Các nguy cơ có thể gặp phải khi xăm hình?

Kích cỡ và chiều sâu của tổn thương do xăm hình gây ra tương đối nông (1 – 2mm chiều sâu), do đó ít khi ảnh hưởng đến người được xăm hình. Tuy nhiên, một số nguy cơ có thể gặp phải như:

– Nhiễm khuẩn: việc tạo ra các tổn thương trên da làm tăng nguy cơ nhiễm virus, vi khuẩn sau khi xăm. Một số trường hợp ít gặp hơn có thể lây nhiễm Herpes, Pox virus (như trường hợp nhiều bệnh nhân đến gặp chúng tôi ở trên), thậm chí có thể lây nhiễm HIV, viêm gan B, C. Các nguy cơ này thường xuất phát từ việc thao tác, dụng cụ xăm không đảm bảo vệ sinh, nhiễm khuẩn.

Hình 4: Nhiễm tụ cầu vàng và vi khuẩn sinh mủ sau khi xăm hình

– Dị ứng: Việc sử dụng các loại mực màu đưa vào dưới da được xem như đưa các yếu tố lạ, có thể gây phản ứng dị ứng vào cơ thể.

Các biểu hiện của dị ứng mực xăm bao gồm:

  • Nổi sẩn đỏ ngứa cấp tính sau khi xăm vài giờ đến vài ngày.
  • Ngứa, viêm dai dẳng kéo dài tạo thành các phản ứng dày da, bong da, dày sừng.
  • Mảng sần, loét sau nhiều ngày, nhiều tháng.

Hình 5: Các sần, mảng sần, sẹo lồi tồn tại dai dẳng do phản ứng dị ứng với mực xăm

– Nặng lên các bệnh lí da đã mắc

Trên các bệnh nhân có các bệnh da mạn tính như vảy nến, viêm da cơ địa, lichen phẳng… đặc biệt trong giai đoạn bệnh hoạt động (có dấu hiệu Koebner), xăm hình vô tình tạo nên chấn thương tại chỗ cho da, gây xuất hiện các tổn thương da mới tại chỗ hoặc toàn thân.

Hình 6: Tổn thương Vảy nến xuất hiện nhiều hơn ở các vị trí sau xăm hình

–  Khó quan sát tổn thương ung thư da:

 Một vấn đề lo ngại khác nữa là các hình xăm trên các tổn thương sắc tố có sẵn từ trước như: nốt ruồi, bớt sắc tố….được cho là có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện ung thư da hoặc gây cản trở, khó khăn khi theo dõi tiến triển của các tổn thương này. Do đó, cần hạn chế xăm hình trên các vị trí có tổn thương sắc tố này.

Kết luận:

Các biến chứng như nhiễm virus, vi khuẩn, dị ứng nghiêm trọng có thể gặp sau khi xăm hình, đặc biệt nếu thực hiện tại các cơ sở không tin cậy. Để đảm bảo an toàn, bệnh viện Da liễu Trung ương khuyến cáo:

  • Nên đến các cơ sở thẩm mỹ uy tín, có chuyên môn và yêu cầu tiệt trùng dụng cụ, thay kim xăm để phòng tránh tối đa các rủi ro có thể xảy ra.
  • Tránh xăm hình vào các vị trí có tổn thương sắc tố trước đó như: bớt sắc tố, nốt ruồi… để giảm thấp nhất nguy cơ xuất hiện ung thư da.
  • Cân nhắc đối với những đối tượng có biểu hiện dị ứng với thành phần của mực xăm, có cơ địa dị ứng hoặc bệnh da mãn tính trước đó.
  • Đến ngay cơ sở y tế có chuyên môn để khám và điều trị khi nghi ngờ có các tổn thương sau xăm hình

Tài liệu tham khảo

  1. Rahimii IA, Eberhard I, Kasten, TATTOOS: What Do People Really Know About the Medical Risks of Body Ink? J Clin Aesthet Dermatol. 2018 Mar;11(3):30-35.
  2. Andrea Bassi và cs, Tattoo-Associated Skin Reaction: The Importance of an Early Diagnosis and Proper Treatment. Biomed Res Int. 2014; 2014: 354608.
  3. Serup J, Kluger N, Bäumler W (eds): Tattooed Skin and Health. Curr Probl Dermatol. Basel, Karger, 2015, vol 48, pp 48–60.
  4. Nicolas Kluger, Virve Koljonen, Tattoos, inks, and cancer, Lancet Oncol 2012; 13: e161–68.
  5. Paprottka FJ và cs, Trendy Tattoos-Maybe a Serious Health Risk? Aesthetic Plast Surg. 2018 Feb;42(1):310-321.
  6. Ricci F và cs, Melanoma and tattoos: a case report and review of the literature. Eur J Dermatol. 2018 Feb 1;28(1):50-55.

Bài viết: Ths.Bs Đặng Thị Lương

Đăng bài: Phòng CTXH

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn