Bệnh giang mai – “kẻ trá hình hoàn hảo”

Ngày đăng: 03/10/2023 bvdalieutrunguong
  • Ca lâm sàng:

Bệnh nhân nam, 54 tuổi, khởi phát bệnh trước khi đi khám 10 ngày với biểu hiện dát đỏ vùng rãnh quy đầu dương vật. Sau đó, tổn thương tiến triển thành vết loét dần lan rộng, kèm sốt 39 độ. Cách đi khám 3 ngày, bệnh nhân tự rửa sinh dục bằng cồn iode và bôi thuốc dạng bột không rõ thành phần nhưng không đỡ, bệnh nhân đến khám BV Da liễu TW.

Chúng tôi hỏi bệnh và thăm khám thấy tổn thương loét sâu vùng quy đầu dương vật, nền vết loét cứng, không đau, không ngứa; có nhiều hạch bẹn bên phải. Ngoài ra, bệnh nhân không có tổn thương da ở vị trí khác, không có tổn thương niêm mạc miệng hay mắt.

Trước bệnh nhân có những biểu hiện như vậy, chúng tôi đặt ra các chẩn đoán bệnh có thể có ở bệnh nhân này là bệnh lây truyền qua đường tình dục (giang mai, hạ cam, herpes simplex sinh dục); chấn thương hoặc dị ứng thuốc. Khai thác tiền sử, chúng tôi không ghi nhận thấy bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc có khả năng gây dị ứng trước khi xuất hiện tổn thương và cũng không có yếu tố gây loét sinh dục do chấn thương. Trước thời điểm xuất hiện tổn thương sinh dục 2 tháng, bệnh nhân có tiền sử quan hệ tình dục không an toàn.  

Bệnh nhân được làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán giang mai và xét nghiệm tế bào học dịch tổn thương tại vết loét. Kết quả xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu và ko đặc hiệu giang mai đều dương tính. Chúng tôi chẩn đoán bệnh ở bệnh nhân này là giang mai thời kỳ I hay giang mai sơ phát. Bệnh nhân được điều trị bằng Benzathin penicillin G, tiêm mông, liều duy nhất và được hẹn khám lại sau 1 tháng. Chúng tôi cũng tư vấn cho bệnh nhân hiểu về nguy cơ lây nhiễm cho bạn tình và khuyên bệnh nhân thuyết phục các bạn tình của mình đến để làm xét nghiệm kiểm tra. Tuy nhiên vợ và bạn tình khác của bệnh nhân chưa đến làm xét nghiệm kiểm tra sàng lọc giang mai.

Tổn thương loét ở rãnh quy đầu của bệnh nhân (tổn thương ngày thứ 10)

Tổn thương loét ở rãnh quy đầu của bệnh nhân (tổn thương ngày thứ 10)

  • Bàn luận:

+ Giang mai là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn giang mai gây nên. Tỉ lệ mắc giang mai trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng tăng. Tình trạng này có liên quan đến sự gia tăng quần thể quan hệ tình dục đồng giới và xu hướng quan hệ sớm, không an toàn ở thanh thiếu niên.

+ Bệnh giang mai có biểu hiện đa dạng, phức tạp, không chỉ ở da, niêm mạc mà còn có thể ở các cơ quan khác như tai, mắt, cơ xương khớp, tim mạch, thần kinh. Các triệu chứng có thể tiến triển, thay đổi trên cùng một bệnh nhân, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Vì vậy, giang mai còn được mệnh danh là “kẻ trá hình hoàn hảo” (“the great imitator”). Ngoài ra, có những trường hợp giang mai “kín”, bệnh nhân hoàn toàn không có biểu hiện lâm sàng gì cho đến khi được làm xét nghiệm kiểm tra.  Vì vậy, những người có tiền sử tiếp xúc, quan hệ tình dục không an toàn hoặc có những biểu hiện nghi ngờ bệnh lây truyền qua đường tình dục nên đi khám bác sỹ chuyên khoa Da liễu để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

+ Bệnh nhân khi có tổn thương da vùng sinh dục ko nên tự dùng thuốc bôi, thuốc uống tự điều trị. Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến loét vùng sinh dục, bệnh nhân cần được thăm khám kỹ để chẩn đoán chính xác nguyên nhân. Việc tự dùng thuốc bôi, thuốc uống khi chưa biết nguyên nhân có thể làm thay đổi triệu chứng ban đầu, làm sai lệch kết quả xét nghiệm dẫn đến trì hoãn trong việc chẩn đoán và điều trị đúng.

+ Bạn tình hiện tại và trong vòng 1 năm của người mắc giang mai cần được đi khám, làm xét nghiệm giang mai và điều trị bệnh nếu có. Nếu bạn tình của bệnh nhân không được chẩn đoán và điều trị, bệnh nhân hoàn toàn có nguy cơ bị nhiễm lại khi có tiếp xúc tình dục lại, và đây cũng là mối nguy cơ tiềm ẩn lây lan trong cộng đồng.

+ Bệnh giang mai nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể dẫn đến các biến chứng ở các cơ quan khác như cơ xương khớp, thần kinh, tim mạch… Đặc biệt, phụ nữ mang thai mắc giang mai có thể lây truyền cho con, dẫn đến nguy cơ sảy thai, thai chết lưu, trẻ đẻ non, trẻ sinh ra nhẹ cân hoặc mắc giang mai bẩm sinh.

 Viết bài: TS.BS Nguyễn Thị Hà Vinh - Phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng khám STIs - Bệnh viện Da liễu Trung ương

Đăng bài: Phòng Công tác xã hội

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn