Bệnh gai đen (Acanthosis nigricans)

Ngày đăng: 25/10/2024 bvdalieutrunguong

 1. Bệnh gai đen là bệnh gì ?  

Bệnh gai đen là tình trạng da sẫm màu thường xảy ra ở các vùng nếp gấp. Tình trạng tăng sắc tố này có ranh giới không rõ ràng và thường liên quan nhất đến bệnh tiểu đường và hội chứng kháng insulin, nhưng nó có thể là dấu hiệu của bệnh ác tính.

Bệnh gai đen thường xảy ra ở những người dưới 40 tuổi.

2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh

Có nhiều yếu tố liên quan đến sự phát triển của bệnh gai đen.

Tăng insulin lưu thông kích hoạt thụ thể yếu tố tăng trưởng giống insulin (ILGF) của tế bào sừng, đặc biệt là IGF-1.

Bệnh gai đen có tính chất gia đình: trội trên nhiễm sắc thể thường, xuất hiện khi sinh ra hoặc thời thơ ấu. Bệnh xảy ra do đột biến ở thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 3 (FGFR3).

Béo phì là một trong những tình trạng phổ biến nhất liên quan đến bệnh gai đen và có thể liên quan đến tình trạng kháng insulin.

Nhiều loại thuốc có thể có liên quan đến bệnh gai đen như axit nicotinic, glucocorticoid toàn thân, diethylstilbestrol, thuốc tránh thai đường uống kết hợp, liệu pháp hormone tăng trưởng, estrogen, thuốc ức chế protease, niacin và insulin tiêm.

Bệnh gai đen ở chi: giới hạn ở khuỷu tay, đầu gối, đốt ngón tay và bề mặt mu bàn chân. Bệnh này thường gặp ở những người có làn da sẫm màu.

Bệnh gai đen liên quan đến các bệnh lý ác tính: liên quan đến ung thư biểu mô tuyến đường tiêu hóa và ung thư tiết niệu sinh dục như tuyến tiền liệt, vú và buồng trứng.

Liên quan đến bệnh lý tự miễn: SLE, hội chứng Sjogren, xơ cứng bì hoặc viêm tuyến giáp Hashimoto.

Bệnh gai đen một bên: Còn được gọi là bệnh gai đen dạng nốt ruồi (nevoid acanthosis nigricans). Bệnh này rất hiếm và được di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Tổn thương xảy ra một bên và xuất hiện ở trẻ sơ sinh, trẻ em hoặc người lớn.

3. Biểu hiện lâm sàng của bệnh gai đen như thế nào?

Bệnh nhân biểu hiện là vùng da sẫm màu và dày lên không triệu chứng, mịn như nhung và tiến triển thành các mảng có thể sờ thấy.

Ở gần 1/3 bệnh nhân mắc bệnh gai đen liên quan đến bệnh lý ác tính, những thay đổi về da thường xảy ra trước khi có dấu hiệu lâm sàng của bệnh ác tính. Bệnh gai đen liên quan đến ác tính có thể xuất hiện đột ngột và thường đi kèm với ngứa dữ dội.

Các tổn thương của bệnh gai đen thường xảy ra ở các vùng nếp gấp da như bẹn, nách hoặc gáy. Ở trẻ em, vị trí phổ biến nhất của bệnh gai đen là gáy. Hiếm khi, bệnh gai đen có thể xảy ra ở niêm mạc mũi, khoang miệng, thực quản hoặc thanh quản, hiếm gặp hơn là ở kết mạc mắt. Phụ nữ cũng có thể phát triển các tổn thương ở núm vú.

Ở một số bệnh nhân cũng có thể xuất hiện u mềm treo ở vị trí bị bệnh. Có thể có những thay đổi ở móng như dày sừng và trắng móng. Về mặt lâm sàng, không thể phân biệt được các tổn thương của bệnh gai đen lành tính với ác tính.

Hình 1, 2. Hình ảnh tổn thương của bệnh gai đen (Nguồn: Internet)

Hình 1, 2. Hình ảnh tổn thương của bệnh gai đen (Nguồn: Internet)

4. Làm thế nào để chẩn đoán bệnh gai đen ?  

Bệnh gai đen được chẩn đoán lâm sàng và có thể xác định bằng sinh thiết da. Có thể cần xét nghiệm máu, nội soi hoặc chụp X-quang để loại trừ bệnh tiểu đường hoặc ung thư. Khi sinh thiết, có thể thấy dày sừng, thâm nhiễm bạch cầu, quá sản thượng bì và tăng sinh tế bào hắc tố. Nhiều trường hợp cần loại trừ ác tính. Vì phần lớn các trường hợp có liên quan đến tình trạng kháng insulin và/hoặc béo phì nên khuyến cáo nên sàng lọc bệnh tiểu đường.

5. Chẩn đoán phân biệt

  • Nhiễm nấm sợi, nấm Candida
  • Bệnh Pellagra
  • Bệnh vảy cá
  • Bớt thượng bì
  • Tăng sắc tố da liên quan đến bệnh Addison

6. Phương pháp điều trị là gì ?

Bệnh có thể mờ dần theo thời gian bằng cách điều trị nguyên nhân, tình trạng kháng insulin. Kiểm soát đường máu thông qua tập thể dục và chế độ ăn uống thường cải thiện các triệu chứng. Bệnh gai đen liên quan đến bệnh lý ác tính có thể khỏi nếu khối u gây bệnh được điều trị thành công.

Bệnh gai đen liên quan đến tình trạng kháng insulin có thể được điều trị bằng các loại thuốc như metformin và rosiglitazone, là các thuốc làm tăng độ nhạy insulin.

Nên ngừng sử dụng tất cả các tác nhân kích thích và thuốc.

Các thuốc bạt sừng như retinoid tại chỗ (ví dụ tretinoin tại chỗ 0,1% hoặc kết hợp tretinoin 0,05% và amoni lactat 12%) và podophyllin có thể có hiệu quả. Các chất tương tự vitamin D tại chỗ (ví dụ calcipotriol (calcipotriene) 0,005%) cũng có hiệu quả.

Melatonin cũng có thể cải thiện các triệu chứng trên da ở những bệnh nhân béo phì mắc bệnh bằng cách cải thiện tình trạng viêm và độ nhạy của insulin.

Sử dụng tia laser alexandrite, mài da và lột da bằng hóa chất cũng có hiệu quả. Phẫu thuật cắt bỏ là phương pháp điều trị chính cho các tổn thương ác tính.

7. Tiên lượng

Bệnh nhân mắc dạng lành tính của bệnh gai đen có ít hoặc không có biến chứng về da, tiên lượng tốt và có khả năng hồi phục sau điều trị. Biến chứng có thể xuất phát từ các bệnh lý tiềm ẩn như tiểu đường và các tình trạng kháng insulin. Tiên lượng ở bệnh nhân mắc dạng ác tính của bệnh gai đen thường kém vì bệnh lý ác tính đã tiến triển vào thời điểm chẩn đoán ở những bệnh nhân này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Shah VH, Rambhia KD, Mukhi JI, Singh RP, Kaswan P. Clinico-investigative Study of Facial Acanthosis Nigricans. Indian Dermatol Online J. 2022;13(2):221–8. Published 2022 Mar 3. doi:10.4103/idoj.IDOJ_855_20.

2.      Verma S, Sandhu S, Kotwal N, Madke B, Yadav N, Vasudevan B. Review of facial acanthosis nigricans: Easy to diagnose and difficult to treat marker of hyperinsulinemia/metabolic syndrome. Med J Armed Forces India. 2024;80(3):257–69.

3.      Mourad AI, Haber RM. Drug-induced acanthosis nigricans: A systematic review and new classification. Dermatol Ther. 2021;34:e14794. DOI: 10.1111/dth.14794.

Viết bài: BSNT. Nguyễn Mạnh Hùng

Đăng bài: Phòng Công tác xã hội

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn