Viêm quầng (Erysipelas)

Ngày đăng: 22/03/2025 bvdalieutrunguong

1. Đại cương  

Viêm quầng là một bệnh nhiễm trùng da liên quan đến lớp trung bì, nhưng nó cũng có thể lan đến các mạch bạch huyết nông trên da. Viêm quầng cũng được gọi là "Ngọn lửa của Thánh Anthony" do tình trạng lan rộng cấp tính của nó. Chẩn đoán có thể nhầm lẫn với viêm mô bào. Viêm mô bào có ranh giới không rõ và tiến triển chậm hơn, trong khi viêm quầng có ranh giới rõ hơn và tiến triển nhanh hơn. Erysipelas có thể nghiêm trọng nhưng hiếm khi gây tử vong. Bệnh đáp ứng nhanh với thuốc kháng sinh.

2. Dịch tễ học

Viêm quầng có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, chủng tộc và giới tính. Một số nghiên cứu cho thấy bệnh phổ biến hơn ở phụ nữ. Tỷ lệ mắc bệnh đã giảm kể từ khi có thuốc kháng sinh và cải thiện điều kiện vệ sinh.

 3. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh là gì ?

Nguyên nhân gây bệnh chính là liên cầu khuẩn. Hầu hết nhiễm trùng ở mặt là do liên cầu khuẩn nhóm A, trong khi liên cầu khuẩn không phải nhóm A liên quan nhiều hơn ở chi dưới. Ở trẻ sơ sinh, liên cầu khuẩn nhóm B là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh viêm quầng sau sinh. Có ít bằng chứng cho thấy tụ cầu khuẩn đóng vai trò trong bệnh viêm quầng. 

Các yếu tố nguy cơ gây bệnh bao gồm:

  • Phù bạch huyết (yếu tố nguy cơ chính)
  • Tắc nghẽn bạch huyết
  • Rò động mạch tĩnh mạch
  • Tình trạng sau phẫu thuật
  • Hội chứng thận hư
  • Cắt bỏ tĩnh mạch hiển để bắc cầu

Nhiễm trùng da lan truyền qua vết thương trên da, xâm nhập trực tiếp vào hệ thống bạch huyết. Côn trùng cắn, loét do ứ trệ, vết mổ và suy tĩnh mạch đã được báo cáo là các yếu tố tạo đường vào. Một số yếu tố nguy cơ khác là béo phì, phù bạch huyết, bệnh nấm chân, loét chân, chàm, sử dụng thuốc tiêm tĩnh mạch, bệnh tiểu đường không được kiểm soát tốt và bệnh gan.

4. Các đặc điểm lâm sàng

Các triệu chứng của bệnh thường khởi phát đột ngột và kèm theo sốt, ớn lạnh và rét run. Bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến chi dưới, nhưng khi ảnh hưởng đến mặt, bệnh có thể phân bố theo hình cánh bướm trên má và sống mũi. Vùng da bị ảnh hưởng có đường viền rõ và nhô lên. Nó có màu đỏ tươi và sung nề. Nó có thể có vết lõm nhỏ (giống như vỏ cam). Tổn thương có thể có bọng nước và trong trường hợp nghiêm trọng có thể bị hoại tử. Một số trường hợp có thể có xuất huyết.

Viêm mô bào thường không biểu hiện sưng tấy rõ rệt nhưng có những đặc điểm khác giống với viêm quầng như đau và nóng ở vùng da bị ảnh hưởng.

Ở trẻ sơ sinh, tình trạng này thường xảy ra ở rốn hoặc vùng tã lót.

Viêm quầng có bọng nước có thể là do nhiễm liên cầu khuẩn hoặc nhiễm trùng đồng thời với tụ cầu khuẩn vàng (bao gồm cả MRSA).

Hình 1, 2. Hình ảnh tổn thương của viêm quầng (Nguồn: Internet)

Hình 1, 2. Hình ảnh tổn thương của viêm quầng (Nguồn: Internet)

Bệnh viêm quầng tái phát ở 1/3 số bệnh nhân do: sự tồn tại của các yếu tố nguy cơ và tổn thương hệ bạch huyết (do đó làm suy yếu khả năng dẫn lưu độc tố).

Biến chứng rất hiếm gặp nhưng có thể gặp: áp xe, hoại tử, viêm tắc tĩnh mạch, nhiễm trùng các cơ quan khác như viêm nội tâm mạc, viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm bao hoạt dịch, viêm gân, viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu; huyết khối xoang hang, sốc nhiễm độc do liên cầu khuẩn (hiếm gặp).

5. Làm thế nào để chẩn đoán viêm quầng?

    Viêm quầng thường được chẩn đoán bằng lâm sàng đặc trưng.

    Các xét nghiệm có thể thấy:

  • Tăng số lượng bạch cầu trong máu
  • CRP tăng cao
  • Nuôi cấy vi khuẩn dương tính
  • Chụp MRI và CT có thể chỉ định trong trường hợp nhiễm trùng sâu.

6. Chẩn đoán phân biệt

Các chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm mô bào, áp xe, bệnh gút và viêm quanh móng. Một số chẩn đoán nghiêm trọng hơn bao gồm viêm bao hoạt dịch, viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm cân hoại tử, viêm mô bào hốc mắt, huyết khối tĩnh mạch sâu, viêm bao gân gấp.

7. Phương pháp điều trị

Điều trị chung

  • Chườm lạnh và thuốc giảm đau
  • Nâng cao chi bị nhiễm trùng để giảm sưng tại chỗ
  • Chăm sóc vết thương thường xuyên.

Thuốc kháng sinh

  • Thuốc kháng sinh được lựa chọn đầu tiên là các kháng sinh điều trị liên cầu như penicillin uống hoặc tiêm tĩnh mạch.
  • Erythromycin, roxithromycin hoặc pristinamycin có thể được sử dụng ở những bệnh nhân bị dị ứng với penicillin.
  • Vancomycin được sử dụng khi bệnh do MRSA gây ra
  • Điều trị thường kéo dài 5-10 ngày

8. Tiên lượng

Triệu chứng toàn thân sẽ hết trong vòng một hoặc hai ngày, những thay đổi trên da có thể mất vài tuần để khỏi hoàn toàn và không để lại sẹo.

Viêm quầng tái phát ở 1/3 số bệnh nhân do các yếu tố nguy cơ vẫn tồn tại và cũng do bản thân bệnh có thể gây tổn thương bạch huyết (do đó làm suy yếu khả năng dẫn lưu độc tố) ở vùng da bị ảnh hưởng, dẫn đến các đợt tái phát. Nếu bệnh nhân bị tái phát, có thể cân nhắc điều trị dự phòng lâu dài bằng penicillin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Karakonstantis S. Is coverage of S. aureus necessary in cellulitis/erysipelas? A literature review. Infection. 2020 Apr;48(2):183-191.

2.      Klotz C, Courjon J, Michelangeli C, Demonchy E, Ruimy R, Roger PM. Adherence to antibiotic guidelines for erysipelas or cellulitis is associated with a favorable outcome. Eur J Clin Microbiol Infect Dis. 2019 Apr;38(4):703-709.

3.      Rath E, Skrede S, Mylvaganam H, Bruun T. Aetiology and clinical features of facial cellulitis: a prospective study. Infect Dis (Lond). 2018 Jan;50(1):27-34.

 Viết bài: BSNT. Nguyễn Mạnh Hùng

Đăng bài: Phòng Công tác xã hội

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn