Viêm miệng liên quan tới MYCOPLASMA PNEUMONIAE

Ngày đăng: 06/07/2018 Admin

1. Vài nét về Mycoplasma pneumoniae
     Mycoplasma pneumoniae là loài vi khuẩn rất nhỏ thuộc lớp Mollicutes, có khả năng gây viêm phổi và một số bệnh khác cho người. Năm 1898, Nocard và Roux phân lập được một loài mycoplasma trong môi trường nuôi cấy từ bò, nhưng tới năm 1944, Mycoplasma pneumoniae mới được phân lập và mô tả từ một bệnh nhân viêm phổi tiên phát không điển hình. Ban đầu, M. pneumoniae được xem là virus hơn là vi khuẩn vì kích thước nhỏ, đi qua được màng lọc. Nhưng sau đó, người ta thấy rằng, loài sinh vật này có thể sống và sinh sản độc lập, không cần ở trong tế bào khác, mượn vật chất di truyền của tế bào khác, vì thế nó được xem là vi khuẩn.

Về mặt thuật ngữ, mycoplasma (myco- nghĩa là nấm, -plasma nghĩa là dạng hình thành) xuất phát từ việc một vài loài Mycoplasma có sự tăng sinh giống nấm (gungal-like growth). Mycoplasma được phân vào lớp Mollicutes (mollis nghĩa là mềm, cutis nghĩa là da) do kích thước nhỏ và cấu trúc genome của chúng, không có vách tế bào (cell wall), chứa hàm lượng thấp nucleotid G+C và nhu cầu dinh dưỡng khác thường.

     Ở người, M. pneumoniae gây viêm phổi tiên phát không điển hình (primary atypical pneumonia), viêm khí phế quản, bệnh đường hô hấp trên. Thuật ngữ “viêm phổi lang thang” (walking pneumonia) hay viêm phổi không điển hình (atypical pneumonia) được sử dụng để chỉ loại viêm phổi gây ra bởi M. pneumoniae không đáp ứng với kháng sinh như penicillin. Ngoài ra, M. pneumoniae có liên quan tới một số bệnh da liễu như viêm miệng, hồng ban nút, bệnh Raynaud, bệnh Kawasaki, hội chứng Stevens-Johnson. Vi khuẩn lây từ người sang người qua các giọt nước bọt, hơi nước chứa mầm bệnh. Đa số người mang vi khuẩn không lây bệnh. Thời gian ủ bệnh trung bình là 1-4 tuần.
2. Viêm miệng liên quan tới Mycoplasma pneumoniae
2.1. Hội chứng Stevens-Johnson

     Hội chứng Stevens-Johnson là một bệnh thuộc phổ các bệnh da gây bong tách, hoại tử thượng bì (epidermolytic dermopathies), bao gồm các bệnh khác nữa như hoại tử thượng bì nhiễm độc (hội chứng Lyell), hồng ban đa dạng thể nặng. Các bệnh này có đặc điểm chung là gây hoại tử, bong tách thượng bì khỏi trung bì, nguyên nhân chủ yếu là do đáp ứng miễn dịch với thuốc hoặc các tác nhân sinh học khác, trong đó có M. pneumoniae.

     Trong hội chứng Stevens-Johnson, các triệu chứng thường xuất hiện sau khi dùng thuốc nghi ngờ gây dị ứng1-8 tuần. Các thuốc hay gặp là kháng sinh nhóm sulfamid, thuốc an thần, thuốc chống động kinh có vòng thơm (carbamazepin), allopurinol, piroxicam, tenoxicam, thuốc kháng virus (nevirapin-điều trị virus HIV1). Khởi đầu, bệnh nhân có các triệu chứng như sốt, mệt mỏi, viêm long đường hô hấp trên, sau đó 1-3 ngày, xuất hiện khó chịu ở mắt, đỏ mắt, viêm kết mạc, viêm miệng, loét miệng. Có hai niêm mạc trở lên bị ảnh hưởng, hay gặp nhất là niêm mạc mắt và niêm mạc miệng, với mức độ khá nặng, đau, loét, hoại tử, khó nuốt. Các thương tổn da xuất hiện đồng thời hoặc sau đó, điển hình là các dát đỏ thẫm, ngứa, hoại tử, hình bia bắn không điển hình bằng phẳng với da lành, trên nền các dát đó xuất hiện bọng nước, mụn nước. Diện tích có bọng nước, bóc tách thượng bì chiếm dưới 10% diện tích cơ thể.


2.2. Viêm miệng liên quan tới Mycoplasma pneumoniae

     Khi hội chứng Stevens-Johnson chỉ biểu hiện ở niêm mạc, không có thương tổn da thì được gọi là hội chứng Stevens-Johnson không điển hình. Sau đó, dựa vào các phát hiện vi sinh, bệnh được gọi là viêm miệng liên quan tới M. pneumoniae (Mycoplasma pneumoniae-associated mucositis-MPAM), một thể bệnh riêng.

     Triệu chứng lâm sàng của MPAP

     Nghiên cứu hệ thống của Vujicvà cộng sự cho thấy, MPAM thường gặp ở tuổi trẻ (18-38), đặc biệt là trẻ em và thanh niên. Bệnh khởi phát với các triệu chứng như sốt cao, mệt mỏi, ho khan, sau đó vài ngày xuất hiện viêm kết mạc mắt, viêm miệng. Thương tổn ở miệng khá nặng, loét, hoại tử, có giả mạc vàng bao phủ, ảnh hưởng tới môi, đầu lưỡi, niêm mạc má, thậm chí lan tới hầu họng và dây thanh. Ngoài ra, niêm mạc sinh dục có thể bị tổn thương. Không có thương tổn da của hội chứng Stevens-Johnson (bao gồm các dát thâm hoại tử, ngứa, hình bia bắn không điển hình bằng phẳng, các bọng nước hình thành trên nền dát đỏ thẫm).

     Các xét nghiệm trong MPAM

     – Xét nghiệm huyết thanh cho M. pneumoniae: bao gồm các kháng thể IgM, IgG, IgA. Trong đó, IgM phản ánh tình trạng mới nhiễm M. pneumoniae, được sản xuất trong vài tuần đàu sau phơi nhiễm, đỉnh là 3-6 tuần, sau đó giảm nhanh. Nồng độ IgM cao có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ em-đối tượng chưa phơi nhiễm trước đó. Tuy nhiên, kết quả IgM âm tính chưa loại trừ được tình trạng nhiễm cấp M. pneumoniae, hơn nữa IgM có thể tăng kéo dài, thậm chí hằng năm. Do đó, IgM không hẳn là dấu ấn đáng tin cậy cho sự mới nhiễm M. pneumoniae. IgG phản ánh sự tái nhiễm M. pneumoniae. Gần đây, người ta đề xuất dùng IgA để chẩn đoán nhiễm M. pneumoniae cấp bởi vì IgA được sản xuất sớm, đạt đỉnh sớm hơn và giảm xuống nhanh hơn so với IgM.

     – Mô bệnh học: có hiện tượng hoại tử của niêm mạc, xâm nhập viêm lan tỏa (giống như trong hội chứng Stevens-Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc).

     – Chụp X-quang ngực thẳng có thể có hình ảnh viêm phổi không điển hình.

     – Các xét nghiệm để loại trừ viêm miệng do các tác nhân khác như virus herpes, HIV, Epstein-Barr virus, giang mai, Chlamydia.

     – Các xét nghiệm ít làm hơn như nuôi cấy vi khuẩn, phản ứng khuếch đại chuỗi polymerase (PCR).

     Chẩn đoán MPAP

     Theo Vujic, một bệnh nhân được chẩn đoán MPAP khi có đủ bốn tiêu chuẩn sau:

     – Có các triệu chứng liên quan với nhiễm M. pneumoniae.

     – Có loét miệng.

     – Xét nghiệm huyết thanh M. pneumoniae dương tính.

     – Không có thương tổn trên da.


Ảnh 5. Trường hợp MPAP (nguồn: I. Vujic)

a. Viêm kết mạc hai bên không có mủ.


b. Loét miệng có giả mạc.

c. Mô bệnh học: có hoại tử niêm mạc và xâm nhập viêm lan tỏa.

     Điều trị MPAP

     – Vệ sinh, chăm sóc thương tổn loét miệng:

​    + Làm sạch bằng các dung dịch sát trùng như chlohexidine

​    + Dùng gạc ẩm đắp môi, miệng

​    + Loại trừ nhiễm trùng do herpes, Candida với các trường hợp thương tổn niêm mạc miệng lâu lành.

​    – Chăm sóc các niêm mạc khác bị tổn thương như mắt, sinh dục.

​    – Các thuốc toàn thân:

​    + Kháng sinh điều trị M. pneumoniae: nhóm macrolid, tetracyclin, doxycyclin. Chú ý rằng đã xuất hiện sự kháng thuốc của vi khuẩn đối với nhóm macrolid. Kháng sinh khác được sử dụng là fluoroquinolon, thận trọng cho trẻ em và phụ nữ có thai-những đối tượng dễ bị nhiễm M. Pneumoniae.

    + Một số tác giả sử dụng thuốc ức chế miễn dịch: corticosteroid, cyclosporin A.

​    – Hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh, nếu loét miệng nhiều, đau nhiều, không ăn được thì cân nhắc đặt sond dạ dày.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Vujic I, Shroff, Grzelka M et al (2015). Mycoplasma pneumoniae-associated mucositis-case report and systemic review of literature. JEADV, 29, 595-598.

​    2. Waites KB, Talkington DF (2004). Mycoplasma pneumoniae and its role as a human pathogen. Clin Microbiol Rev, 17, 697-728.

​    3. Shalock PC, Dinulos JG (2005). Mycoplasma pneumoniae-induced Stevens-Johnson syndrome without skin lesions: fact or fiction? J Am Acad Dermatol, 52, 312-315.
 

Bài: BS. Trần Thị Huyền, Khoa D2-Bệnh viện Da liễu Trung ương, Bộ môn Da liễu-Đại học Y Hà Nội

Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT


Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn