U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
U máu anh đào (Cherry hemangiomas)
Porphyrin là một nhóm bệnh do bất thường trong quá trình tổng hợp nhân hem của hemoglobin. Porphyria hồng cầu di truyền (Congenital erythropoietic porphyria – CEP) hay còn gọi là bệnh Gunther là một thể porphyrin bọng nước rất hiếm gặp với tỉ lệ dưới 1/1.000.000 (chưa đến 500 trường hợp được báo cáo trên toàn thế giới cho đến thời điểm này). Nguyên nhân của bệnh là đột biến gen lặn trên nhiễm sắc thể thường gây ra một thiếu hụt UROS (enzyme thứ 4 trong con đường tổng hợp nhân hem). Bệnh biểu hiện từ nhỏ, thường trong vòng 10 năm đầu đời và hầu hết bệnh nhân sống đến tuổi trưởng thành.
1. BÁO CÁO LÂM SÀNG
Hai bệnh nhân, dân tộc Kinh, là hai anh em ruột (con đầu và con thứ hai) trong một gia đình có ba anh em. Bố mẹ trẻ không kết hôn cận huyết. Cả hai bố mẹ, đứa con thứ 3 và những người khác trong gia đình ba đời không có mắc bệnh tương tự.
1.1. Trường hợp 1
Trẻ nam, 13 tuổi là con thứ nhất trong gia đình, sinh thường, đủ tháng, cân nặng lúc sinh là 3,0kg. Sau đẻ 6 tháng trẻ xuất hiện các bọng nước rải rác tập trung chủ yếu ở vùng mặt, bàn tay, chân. Tổn thương lành để lại sẹo, một số tổn thương trợt, loét. Bố trẻ để ý thấy nước tiểu của trẻ có màu đỏ từ khi mới sinh. Trẻ phát triển tâm thần vận động bình thường so với lứa tuổi, và không có các dấu hiệu bất thường về thần kinh. Trẻ được chẩn đoán Porphyria hồng cầu di truyền – Thiếu máu từ năm 1 tuổi, theo dõi và truyền máu định kì hàng tháng.
Khám hiện tại:
Xét nghiệm:
1.2. Trường hợp 2
Trẻ nữ, 11 tuổi, là em của bệnh nhân trong trường hợp 1. Theo lời bố bệnh nhân kể: trẻ là con thứ 2, sinh thường, đủ tháng, cân nặng lúc sinh là 2,8kg. Sau đẻ 8 tháng trẻ xuất hiện các bọng nước rải rác tập trung chủ yếu ở vùng bàn tay, chân. Tổn thương lành để lại sẹo. Bố trẻ phát hiện ra thấy trẻ đi tiểu màu đỏ từ khi mới sinh. Tâm thần vận động của trẻ phát triển bình thường so với lứa tuổi, không có dấu hiệu bất thường về thần kinh. Trẻ được chẩn đoán Porphyria hồng cầu di truyền – Thiếu máu, theo dõi và truyền máu định kì.
Khám hiện tại:
Xét nghiệm:
2. BÀN LUẬN
Porphyria hồng cầu di truyền được mô tả lần đầu tiên vào năm 1874, là bệnh thuộc nhóm rối loạn porphyrin, di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Rối loạn porphyrin được phân loại thành 2 nhóm chính:
CEP là bệnh do thiếu hụt enzym UROS, làm cho ứ đọng uroporphyrin I và coproporphyrin I trong huyết thanh, hồng cầu, phân, nước tiểu, mô khác. Porphyrin hấp thụ photon ở bước sóng 408 nm, giải phóng năng lượng, từ đó gây tổn thương mô, chủ yếu ở vùng tiếp xúc với ánh sáng.
Triệu chứng lâm sàng có thể xảy ra từ lúc trong tử cung với tan máu nặng hoặc triệu chứng nhẹ khởi phát ở người lớn với tổn thương đặc trưng da là tăng nhạy cảm ánh sáng, nước tiểu máu đỏ – hồng.
Báo cáo trên 29 ca CEP của Katugampola và cộng sự, có 76% bệnh nhân khởi phát trước 5 tuổi với các triệu chứng như nước tiểu đỏ, vàng da sơ sinh, thiếu máu. Trong số đó có 12 bệnh nhân có ít nhất 1 triệu chứng của CEP tại thời điểm sinh như: nước tiểu đỏ, vàng da, thiếu máu/giảm tiểu cầu, gan lách to. Những bệnh nhân khởi phát muộn sau 10 tuổi thường được chẩn đoán với triệu chứng da mà không có triệu chứng nước tiểu đỏ.
Chẩn đoán phân biệt của CEP chủ yếu là với những thể porphyrin khác như PCT, EPP do có một số tổn thương da khác nhau. PCT là thể khởi phát muộn, có cả tổn thương da và gan, mức độ nhạy cảm ánh sáng nhẹ hơn CEP. EPP cũng thường khởi phát sớm tương tự CEP tuy nhiên tổn thương chủ yếu là dát đỏ dai dẳng mà thường không có bọng nước và không có các dấu hiệu khác như răng đỏ, rậm lông, thiếu máu, cường lách.
Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh và loại đột biến gen. Đa số các bệnh nhân sống đến tuổi trưởng thành với số tuổi trung bình là 40-60 trường hợp. Trong loạt 29 trường hợp ở châu Âu, hai yếu tố tiên lượng quan trọng nhất là tuổi khởi phát và biểu hiện ở hệ huyết học. Tuổi khởi phát muộn thường có triệu chứng nhẹ hơn và có thể chỉ có triệu chứng ở da. Trong số đó, 17 bệnh nhân có tổn thương da đỡ dần theo thời gian, 12 bệnh nhân tiến triển da nặng dần và 1 trường hợp xuất hiện ung thư da. Bệnh nhân CEP thường có triệu chứng da nhẹ hơn vào mùa đông.
Hai bệnh nhân của chúng tôi là hai anh em ruột trong một gia đình có ba anh em, và đều có triệu chứng sớm ngay trong thời kì thơ ấu với các triệu chứng sớm như nước tiểu đỏ, tổn thương da, thiếu máu phụ thuộc truyền máu. Trong y văn, Arfan cũng báo cáo 3 chị em ruột cùng mắc CEP, trong có 2 người khởi phát sớm và 1 người khởi phát muộn và bố mẹ hoàn toàn khỏe mạnh.
Hiện nay điều trị Porphyria hồng cầu di truyền vẫn còn là vấn đề nhiều thách thức. Điều trị bao gồm tránh nắng và điều trị triệu chứng:
Kết luận: Porphyria hồng cầu di truyền là một bệnh hiếm, do thiếu hụt hoạt động ezym tổng hợp hem là UROS. CEP thường khởi phát sớm ở những năm đầu tiên, tuy nhiên có thể khởi phát ở người lớn, không có sự khác biệt về giới tính và chủng tộc. Cần chẩn đoán sớm và lên kế hoạch điều trị, theo dõi sớm nhất cho bệnh nhân để hạn chế tối đa các biến chứng về da, mắt, hệ máu cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài viết: BSNT Hồ Phương Thùy
Đăng bài: Phòng CTXH
Viêm da dạng herpes (Dermatitis herpetiformis - Duhring-Brocq disease)
Phát ban đa dạng ở phụ nữ mang thai hay còn gọi là sẩn, mảng, mày đay và ngứa ở phụ nữ mang thai (pruritic urticarial papules and plaques of pregnancy- PUPPP) là tình trạng rối loạn viêm lành tính, hay gặp ở phụ nữ mang thai ở những tuần cuối thai kỳ hoặc ngay sau sinh. Trước đây tình trạng này còn được gọi là phát ban nhiễm độc ở phụ nữ mang thai hay phát ban nhiễm độc của Bourner khi mang tha
Bệnh mạch máu dạng mạng lưới (Livedoid vasculopathy)