Những tiến bộ trong quản lý bệnh Vảy nến

posted 11/12/2023 bvdalieutrunguong

Tổng quan

Vảy nến là bệnh viêm hệ thống mãn tính với biểu hiện lâm sàng đa dạng, đặc trưng bởi tổn thương da là: dát đỏ, bong vảy. Ngoài biểu hiện da, bệnh nhân vảy nến thường gặp các bệnh đồng mắc khác như: viêm khớp vảy nến, béo phì, hội chứng rối loạn chuyển hoá, tăng huyết áp, đái tháo đường và xơ vữa động mạch. Chính vì vậy, hiện nay ngoài điều trị tổn thương da thì bệnh nhân vảy nến cũng cần được khám và tầm soát bệnh lý của các cơ quan khác một cách toàn diện.

Thang điểm đánh giá mức độ nặng của vảy nến

Thang điểm đánh giá mức độ nặng của vảy nến là công cụ quan trọng cho bác sỹ lâm sàng quyết định phương pháp điều trị cho bệnh nhân, cũng như để sử dụng trong các nghiên cứu.

Mức độ nghiêm trọng do bệnh nhân báo cáo thường không tương xứng với mức độ nghiêm trọng do bác sĩ đánh giá. Các thang điểm đo mức độ nặng được sử dụng trong thực hành thường đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng của bệnh vẩy nến, bỏ qua sự xuất hiện vảy nến ở các vị trí đặc biệt  (mặt, lòng bàn tay, chân, da đầu, cơ quan sinh dục), dẫn đến điều trị không đúng mức. Thông thường, chỉ những bệnh nhân có diện tích tổn thương (BSA)  tối thiểu 10% mới được tham gia vào vào các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc đích mới, do đó thiếu bằng chứng về hiệu quả của các tác nhân này ở những bệnh nhân có diện tích tổn thương ít hơn hoặc bệnh liên quan đến các vị trí đặc biệt. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc phê duyệt các thuốc này cho những bệnh nhân có diện tích tổn thương nhỏ và việc từ chối thanh toán tiền thuốc này ở một số hệ thống y tế quốc gia hoặc bên thanh toán bên thứ ba.

Để xác định mức độ nghiêm trọng của bệnh vẩy nến theo cách thực tế hữu ích trên lâm sàng và trong nghiên cứu, Hội đồng Bệnh vẩy nến Quốc tế (International Psoriasis Council - IPC) đã tổng hợp ý kiến của các chuyên gia bệnh vẩy nến toàn cầu, đồng thuận chia thành:

- Mức độ chỉ sử dụng thuốc bôi

- Mức độ cần sử dụng thuốc toàn thân khi thoả mãn 1 trong các tiêu chuẩn: BSA>10, bệnh liên quan tới các vị trí đặc biệt, thất bại với thuốc bôi.

Tuy nhiên việc áp dụng phân loại nào cũng cần phù hợp với điều kiện từng quốc gia.

Những thuốc mới đang nghiên cứu để điều trị vảy nến

Ngoài việc ra đời của nhiều loại thuốc sinh học thì các thuốc ức chế tyrosine kinase 2 (TKY2), một kinase làm trung gian truyền tín hiệu của các cytokine liên quan đến sinh bệnh học của bệnh vẩy nến cũng đang được nghiên cứu như Deucravacitinib đã được FDA đã phê duyệt để điều trị bệnh vẩy nến thể mảng từ trung bình đến nặng ở những người trưởng thành phù hợp với liệu pháp toàn thân hoặc liệu pháp quang học.

Hiện nay, các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu việc sử dụng thuốc sinh học sớm để ngăn ngừa tình trạng viêm hệ thống trong vảy nến. Nhờ sự tiến bộ của y học, mục tiêu điều trị hướng tới là PASI 90 hoặc PASI 100 hoặc. PASI ≤ 2, DLQI <2.

Ở Việt Nam, bệnh nhân vảy nến được khám và tư vấn toàn diện về các bệnh lý đồng mắc, tiếp cận các phương pháp điều trị mới và hiện đại tại các phòng khám chuyên đề như tại bệnh viện Da liễu Trung ương. Trong tương lai, với sự tiến bộ của việc quản lý, bệnh nhân vảy nến sẽ được kiểm soát tốt và có chất lượng cuộc sống cao hơn.

Viết bài: Ths.BS Trịnh Thị Linh - Khoa Điều trị nội trú ban ngày 

Đăng bài: Phòng Công tác xã hội

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Thông báo: Bệnh viện Da liễu Trung ương mời các nhà thầu quan tâm nộp hồ sơ chào giá đăng ký thực hiện dự toán mua sắm hóa chất chạy máy huyết học DxH600.

Thông báo: Bệnh viện Da liễu Trung ương mời các nhà thầu quan tâm nộp hồ sơ chào giá đăng ký thực hiện dự toán mua sắm hóa chất chạy máy huyết học DxH600.

Thông báo: Bệnh viện Da liễu Trung ương mời các nhà thầu quan tâm nộp hồ sơ chào giá đăng ký thực hiện dự toán mua sắm hóa chất chạy máy huyết học DxH600..

Tin hoạt động- 6 giờ trước

largeer