Bớt giảm sắc tố

Ngày đăng: 04/07/2016 Admin

* Mô tả  bớt giảm sắc tố:

Bớt giảm sắc tố có tên tiếng Anh là achromic naevus hoặc naevus depigmentosus. Đây là bớt bẩm sinh hiếm gặp, đặc trưng bởi các dát màu trắng nhạt, ranh giới rõ, kích thước vài centimet hoặc lớn hơn, có thể chiếm một phần diện tích cơ thể. Các dát có bờ không đều, thậm chí hơi ngoằn ngoèo nhưng ranh giới rõ với da lành. Thực tế, tên gọi của bệnh (achromic nghĩa là mất sắc tố) không hoàn toàn tương xứng với thương tổn vì các dát chỉ giảm sắc tố chứ không mất sắc tố như trong bạch biến. Thương tổn thường đơn độc, không có nhiều dát như trong bệnh tuberous sclerosis. Dát thường xuất hiện ngay lúc sinh hoặc trong trong thời kỳ ấu thơ, ngày càng rõ, rồi ổn định theo thời gian. Vị trí hay gặp nhất là ở thân mình, nhưng cũng có thể thấy ở các chi hoặc ở bất kỳ nơi nào.
* Cơ chế bệnh sinh của bớt giảm sắc tố liên quan tới đột biến khảm của da, gây ra sự thay đổi dòng tế bào sắc tố (melanocyte): làm giảm sự sản xuất melanin, giảm số lượng tế bào sắc tố và/hoặc rối loạn sự vận chuyển các túi sắc tố (melanosome) tới tế bào sừng (keratinocyte) ở lớp thượng bì.
– Các thể dựa trên kiểu phân bố của bệnh bớt sắc tố:

– Bớt giảm sắc tố đơn độc (isolated achromic naevus)

– Bớt giảm sắc tố phân đoạn (segmental achromic naevus)

– Bớt giảm sắc tố thành dải (linear achromic naevus)

Chẩn đoán bớt giảm sắc tố:

Trong thực hành da liễu, bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm với bạch biến. Để chẩn đoán đúng bệnh, có thể dựa vào một số đặc trưng sau của bớt giảm sắc tố như sau:

– Các dát giảm sắc tố (nhạt màu hơn so với da lành) có từ khi mới sinh hoặc thời thơ ấu.

– Cố định ở một vị trí.

– Không có rối loạn cảm giác.

– Không có bờ viền tối màu xung quanh vùng da bị bệnh.

Bệnh không nguy hiểm, không cần điều trị nhưng ảnh hưởng ít nhiều tới thẩm mỹ. Vì vậy các bệnh nhân có thương tổn như trên thường muốn điều trị để giảm sự khác biệt sắc tố giữa vùng da lành và vùng da bệnh. Có một số phương pháp được áp dụng trong điều trị bệnh như trang điểm, laser excimer, ánh sáng (PUVA), và ghép da.



Hình ảnh bớt sắc tố ở cổ  (ảnh: BS. Trần Thị Huyền)

Điều trị:

Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương – 15A Phương Mai – Đống Đa – Hà Nội, chúng tôi đã khám và điều trị cho một số bệnh nhân với thương tổn của bớt giảm sắc tố.


Hình ảnh bớt sắc tố trên bệnh nhân nam 22 tuổi có các dát giảm sắc tố, ranh giới rõ, bờ không đều, kích thước khá lớn, lan rộng từ ngực sang mặt trong cánh tay đang điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương – 15A Phương Mai – Đống Đa – HN. Bệnh nhân ghi nhận thấy xuất hiện thương tổn từ lúc 2 tuổi. Cảm giác tại dát bình thường, không có bờ tăng sắc tố. (ảnh: BS. Trần Thị Huyền).

Tin bài và ảnh: BS. Trần Thị Huyền
Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT


Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Nevus comedonicus

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Vảy phấn dạng Lichen (Pityriasis Lichenoides)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

dalieu.vn dalieu.vn