Biến chứng điều trị trứng cá bằng isotretinoin phối hợp doxycycline

Ngày đăng: 10/04/2023 bvdalieutrunguong

Thời gian gần đây, Bệnh viện Da liễu Trung ương tiếp nhận một trường hợp trứng cá bùng phát nặng sau điều trị bởi bác sĩ không phải chuyên khoa da liễu. Bệnh nhân không được thăm khám trực tiếp bởi bác sĩ chuyên khoa da liễu và không được theo dõi sát trong quá trình điều trị dẫn đến tình trạng biến chứng.  

Bệnh nhân nữ, 19 tuổi, đến khám với nhiều tổn thương sẩn viêm, mụn mủ, nang tập trung chủ yếu ở trán và hai bên má. Trước đó 2 tháng, bệnh nhân chỉ có một vài tổn thương sẩn viêm ở trán, má, cằm, được khám bởi bác sĩ không phải chuyên khoa da liễu và sau đó được theo dõi online với isotretinoin 20mg/ngày và không điều trị thuốc bôi. Sau dùng thuốc 10 ngày, các tổn thương sẩn, cục, nang xuất hiện nhiều lên, bệnh nhân tiếp tục duy trì thuốc đến 1 tháng thì được bác sĩ kê đơn phối hợp isotretinoin 20mg/ngày và doxycycline 100mg/ngày trong 1 tháng tiếp theo. Tổn thương tiến triển ngày càng nặng với nhiều nang kích thước lớn gây biến dạng khuôn mặt. 

Hình 1. Tổn thương trứng cá tại thời điểm 2 tháng trước khi đến khám

Hình 1. Tổn thương trứng cá tại thời điểm 2 tháng trước khi đến khám

 

Hình 2. Tổn thương trứng cá bùng phát tại thời điểm đến khám (Nguồn: Bệnh viện Da liễu trung ương)

Hình 2. Tổn thương trứng cá bùng phát tại thời điểm đến khám (Nguồn: Bệnh viện Da liễu trung ương)

Trứng cá là là một bệnh da phổ biến trong cộng đồng, bệnh rất hay gặp ở tuổi thanh thiếu niên. Vì vậy nhiều người còn chủ quan trong điều trị, tự điều trị hoặc đến khi bệnh nặng mới tìm đến cơ sở y tế.  

Ngày nay với sự phát triển của mạng xã hội, cùng với tâm lý ngại đến bệnh viện, ngại phải chờ đợi, nhiều người lựa chọn điều trị theo kênh online. Bệnh nhân trong trường hợp của chúng tôi đã điều trị theo bác sĩ không phải chuyên ngành da liễu và theo dõi online.

Việc kê đơn điều trị trứng cá phải do bác sĩ chuyên khoa da liễu thực hiện. Bên cạnh đó, chăm sóc tại chỗ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bệnh nhân này không được tư vấn về quy trình chăm sóc da cũng như chế độ ăn uống, sinh hoạt, dẫn đến đáp ứng điều trị kém.  

Khi được hỏi về các tác dụng phụ của thuốc, bệnh nhân hoàn toàn chưa được bác sĩ đề cập đến. Bệnh nhân dùng isotretinoin cần được làm các xét nghiệm sàng lọc trước khi dùng thuốc, để tránh gặp các tác dụng phụ. Đồng thời việc bác sĩ kết hợp isotretinoin với kháng sinh Doxycyclin là chống chỉ định. Do khi phối hợp 2 thuốc này có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện nhức đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, thậm chí có thể gây mù vĩnh viễn do tăng áp lực nội sọ. Sau khi được các bác sĩ ở khoa Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tế bào gốc – Bệnh viện Da liễu Trung ương thăm khám, bệnh nhân được chẩn đoán trứng cá bùng phát mức độ nặng, được điều trị thuốc toàn thân kết hợp với chăm sóc tại chỗ. Sau 3 tuần điều trị, số mụn viêm, mụn mủ giảm đáng kể, các nang gần như đã hoàn toàn biến mất. Tuy nhiên nguy cơ để lại sẹo lõm, sẹo đỏ trên da là rất lớn. 

Hình 3. Tổn thương sau 3 tuần điều trị (Nguồn: Bệnh viện Da liễu trung ương)

Hình 3. Tổn thương sau 3 tuần điều trị (Nguồn: Bệnh viện Da liễu trung ương)

 Khuyến cáo: Trứng cá là bệnh phổ biến, nhưng nếu không điều trị đúng, bệnh có thể tiến triển kéo dài trong nhiều năm, ảnh hưởng tới thẩm mỹ, tâm lý và sự tự tin của người bệnh. Để điều trị trứng cá, người bệnh cần được thăm khám trực tiếp và theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa da liễu. Tránh những trường hợp điều trị online dẫn đến biến chứng trong điều trị và rất khó để hồi phục hoàn toàn như trường hợp trên. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Vallerand I a., Lewinson R t., Farris M s., et al. Efficacy and adverse events of oral isotretinoin for acne: a systematic review. Br J Dermatol. 2018;178(1):76-85.  

2. Zaenglein AL, Pathy AL, Schlosser BJ, et al. Guidelines of care for the management of acne vulgaris. J Am Acad Dermatol. 2016;74(5):945-973.e33. 

Viết bài: BS Vũ Thị Hồng Luyến – BSNT Nguyễn Thị Hồng

Đăng bài: Phòng Công tác xã hội

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus)

Lichen thành dải (Lichen Striatus) là một bệnh da viêm lành tính, hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các sẩn nhỏ, màu hồng, đỏ hoặc màu da, liên kết lại với nhau tạo thành một dải hoặc một vệt dài. Tổn thương điển hình phân bố dọc theo các đường Blaschko, là những đường vô hình trên da được cho là đại diện cho sự di cư của tế bào trong quá trình phát triển phôi thai.

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Mày đay áp lực chậm (Delayed Pressure Urticaria)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng (Perioral Dermatitis)

Viêm da quanh miệng là một tình trạng lành tính thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ tuổi, trưởng thành, bao gồm các sẩn viêm nhỏ và mụn mủ hoặc dát màu hồng, có vảy quanh miệng. Mặc dù vùng quanh miệng là vùng phân bố phổ biến nhất, bệnh này cũng có thể ảnh hưởng đến da quanh mắt và quanh mũi.

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi (Syringoma)

U ống tuyến mồ hôi là khối u lành tính có nguồn gốc từ phần phụ ở da. U ống tuyến mồ hôi biểu hiện sự biệt hóa ống dẫn đặc biệt phát sinh từ các tế bào ống dẫn mồ hôi, thường là eccrine.

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker (Becker’s Nevus)

Bớt Becker được coi là một loại bớt thượng bì lành tính, khởi phát muộn. Các đặc điểm liên quan như phát triển quanh tuổi dậy thì, nam giới chiếm ưu thế, chứng rậm lông và tổn thương dạng mụn trứng cá gợi ý vai trò của androgen.

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce (Apocrine miliaria)

Bệnh Fox-Fordyce, được gọi là apocrine miliaria, là một rối loạn viêm da mãn tính hiếm gặp ảnh hưởng đến các tuyến apocrine, biểu hiện bằng các tổn thương sẩn ở các vùng như nách và hậu môn sinh dục. Được mô tả vào năm 1902 bởi George Henry Fox và John Addison Fordyce.

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota và bớt Ito (Nevus of Ota and Ito)

Bớt Ota là một tổn thương sắc tố lành tính chủ yếu liên quan đến vùng phân bố của dây thần kinh sinh ba. Các nhánh thứ nhất và thứ hai của dây thần kinh sinh ba, cụ thể là nhánh mắt V1 và nhánh hàm trên V2 thường bị ảnh hưởng nhất. Có thể có tình trạng tăng sắc tố ở mắt liên quan. Bớt Ota còn được gọi là bệnh hắc tố ở da và mắt. Bớt Ito rất giống với bớt Ota ngoại trừ sự khác biệt về vị trí phân bố. Nó liên quan đến vị trí phân bố của các dây thần kinh bì cánh tay bên của vai và các dây thần kinh thượng đòn sau. Cả hai bệnh này đều có chung sinh lý bệnh học.

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố

Bệnh da xuất huyết tăng sắc tố (pigmented purpuric dermatoses - PPD) còn được gọi là viêm mao mạch (capillaritis), ban xuất huyết đơn giản (purpura simplex) hoặc ban xuất huyết viêm không có viêm mạch (inflammatory purpura without vasculitis). Đây là một nhóm các tổn thương da mạn tính, lành tính, đặc trưng bởi ban xuất huyết không sờ thấy và tăng sắc tố da, hay gặp ở chi dưới. Việc nhận biết các đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của bệnh da xuất huyết tăng sắc tố rất quan trọng để phân biệt với viêm mạch thực sự ở da và các bệnh lý khác có biểu hiện tương tự.

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Hạt fordyce (Fordyce spot)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

Ngứa mãn tính ở người cao tuổi (Chronic pruritus (CP) in the Elderly)

dalieu.vn dalieu.vn